Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, di cư quốc tế là bộ phận không thể tách rời của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội thế giới và ngày càng gia tăng nhanh chóng về quy mô. Năm 2000, có 173 triệu người di cư quốc tế trên toàn thế giới và số người di cư liên tục gia tăng theo thời gian, đến năm 2022, con số này lên đến 284,5 triệu người, chiếm 3,7% dân số toàn cầu. Theo dự báo của Liên hợp quốc, có khoảng 405 triệu người di cư quốc tế vào năm 2050, chiếm 7% dân số toàn cầu.
Quá trình toàn cầu hóa đã và đang thúc đẩy sự dịch chuyển dân cư giữa các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Những năm gần đây, số lượng người Việt Nam ra nước ngoài cũng như dòng người nước ngoài vào Việt Nam với các mục đích khác nhau (sinh sống, làm việc, học tập, du lịch…) đều gia tăng nhanh chóng. Theo ước tính, có khoảng 05 - 06 triệu người Việt Nam đang sinh sống và làm việc tại hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ trên khắp thế giới, chiếm khoảng 05 - 06% tổng dân số. Trong khi đó, lượng khách nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam được ghi nhận ở mức hơn 30 triệu lượt khách kể từ sau đại dịch Covid-19.
Di cư quốc tế được thừa nhận là nguồn đem lại thịnh vượng, đổi mới và phát triển bền vững cho nhiều quốc gia trên thế giới, làm phát sinh nhiều quan hệ có yếu tố nước ngoài, đặc biệt, trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình, lao động, kinh tế, thương mại. Hệ quả, các tranh chấp dân sự, hình sự có yếu tố nước ngoài cũng như các loại tội phạm xuyên quốc gia gia tăng đáng kể. Do đó, các quốc gia cần tăng cường hợp tác tương trợ tư pháp (TTTP) trên cơ sở luật pháp quốc tế và pháp luật quốc gia nhằm giải quyết hiệu quả những vấn đề pháp lý vượt ra ngoài phạm vi lãnh thổ.
Để cụ thể hóa cơ chế hợp tác quốc tế và tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động TTTP quốc tế, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 là đạo luật đầu tiên được Quốc hội ban hành quy định chuyên ngành về lĩnh vực TTTP. Đây là bước tiến quan trọng trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam trong hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp. Công tác TTTP được thực hiện trên cơ sở Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 từ góc độ thể chế và thực tiễn trong cả 04 lĩnh vực: dân sự, hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù. Theo đó, việc TTTP được cơ quan chức năng triển khai và áp dụng theo các điều ước quốc tế (song phương và đa phương) mà Việt Nam là thành viên, trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài chưa có điều ước quốc tế về TTTP thì thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại. Như vậy, nguyên tắc có đi có lại là một trong những cơ sở rất quan trọng trong TTTP.
Chi tiết nội dung bài viết tại: nhấp vào đây