Thứ ba 02/12/2025 05:39
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Xử lý tiền thi hành án thế nào cho đúng quy định pháp luật?

Từ thực tiễn áp dụng pháp luật trong xử việc xử lý và phân phối tiền thi hành án, tác giả phân tích những quan điểm khác nhau về áp dụng quy định chuyển tiếp của Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ.

1. Tình huống pháp lý

Căn cứ Bản án hôn nhân gia đình số 127/2019/HNGĐ-ST ngày 23/7/2019 (Bản án số 127) của Tòa án nhân dân huyện X giữa chị M với anh H, cùng nhiều người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Theo đó, Bản án đã tuyên:

- Anh H được nhận các tài sản là thửa đất số 37, tờ bản đồ 40, diện tích 4.467,8m2, 01 căn nhà, 06 lò sấy lúa, 01 kho và đất cặp lộ 869 và tài sản trong nhà; anh H trả lại cho chị M một phần hai giá trị tài sản chung là gần 8,5 tỷ đồng và lãi suất chậm trả.

- Anh H, chị M có trách nhiệm liên đới trả cho Ngân hàng TMCP KTVN gần 7,8 tỷ đồng, cùng lãi suất chậm trả, cũng như Ngân hàng có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp là quyền sử dụng đất đối với thửa đất nêu trên.

- Anh H, chị M liên đới trả cho anh N 173 triệu đồng, trả cho bà C 174 triệu đồng, trả cho chị T và anh V 1,15 tỷ đồng, trả cho chị B 420 triệu đồng, trả cho chị D hơn 1,54 tỷ đồng, trả cho bà Đ 500 triệu đồng, trả cho chị T và anh P gần 2,5 tỷ đồng, trả cho anh Q hơn 210 triệu đồng, trả cho anh K 98 triệu đồng, trả cho bà A 30 chỉ vàng 24kr; cùng tiền lãi chậm trả.

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, vào ngày 30/8/2019, chị B, chị D, bà Đ, anh Q, anh K, bà A đã nộp đơn yêu cầu thi hành án. Ngày 20/9/2019, chấp hành viên đã ban hành Quyết định về việc cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 79/QĐ-CCTHADS. Ngày 07/10/2019, anh N, bà C nộp đơn yêu cầu thi hành án. Ngày 09/10/2019, chị T và anh V nộp đơn yêu cầu thi hành án. Ngày 02/3/2020, Ngân hàng nộp đơn yêu cầu thi hành án (đã trừ số tiền gốc anh H, chị M đã trả, còn lại hơn 4,2 tỷ đồng). Ngày 20/8/2020, chị R, anh S (cùng bản án khác) nộp đơn yêu cầu thi hành án. Ngày 11/01/2021, bà Đ, anh P; ông Y (bản án khác) nộp đơn yêu cầu thi hành án.

Đến ngày 20/7/2020, chấp hành viên tiến hành thông báo về việc cưỡng chế và ngày 20/8/2020, chấp hành viên kết hợp với chính quyền địa phương tiến hành kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của anh H và chị M.

Sau nhiều lần giảm giá, đến ngày 17/01/2023, đã bán đấu giá thành tài sản kê biên với số tiền là hơn 13 tỷ đồng.

2. Chênh lệch tiền thi hành án giữa hai lần thông báo về xử lý và phân phối tiền thi hành án

Ngày 17/3/2023, chấp hành viên có Thông báo số 200/TB-CCTHADS về việc xử lý tiền bán tài sản của anh H và bảng kê phân phối tiền để thi hành án. Theo đó, sau khi trừ các khoản chi phí cưỡng chế, án phí,…thì số tiền thi hành án còn hơn 12 tỷ đồng. Ngân hàng được ưu tiên thanh toán đủ tiền nợ gốc và lãi là gần 7,8 tỷ đồng; những người được thi hành án theo Bản án số 127 đều cùng hàng ưu tiên thanh toán, mỗi người được nhận tương ứng 63,65% so với số tiền Bản án đã tuyên. Trong đó, chị T và anh V được nhận hơn 732 triệu đồng. Những người yêu cầu thi hành án đối với bản án khác thì không được nhận tiền.

Những người được thi hành án đã nộp đơn yêu cầu thi hành án vào ngày 30/8/2019 đã khiếu nại đối với Thông báo số 200/TB-CCTHAD và bảng phân phối nhưng Chi cục Thi hành án dân sự huyện X trả lời không chấp nhận đơn khiếu nại.

Tuy nhiên, sau khi họp liên ngành thì Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện X đã ban hành Quyết định thu hồi Quyết định giải quyết khiếu nại, chấp hành viên đã thu hồi Thông báo số 200/TB-CCTHAD và bảng phân phối.

Ngày 25/12/2023, chấp hành viên ra Thông báo số 117/TB-CCTHADS về việc xử lý tiền bán tài sản của anh H và bảng kê phân phối tiền để thi hành án. Theo đó, sau khi trừ các khoản chi phí cưỡng chế, án phí,… thì số tiền thi hành án còn hơn 12 tỷ đồng. Cùng hàng ưu tiên thanh toán với Ngân hàng là các đương sự nộp đơn vào ngày 30/8/2019 (trước thời điểm ban hành Quyết định về việc cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 79/QĐ-CCTHADS ngày 20/9/2019), các đương sự này được nhận đủ số tiền theo Bản án tuyên và lãi chậm trả theo quy định; còn lại hơn 500 triệu đồng được chia theo tỷ lệ đối với những người đã nộp đơn yêu cầu thi hành án sau ngày 20/9/2019. Trong đó, chị T và anh V được nhận hơn 120 triệu đồng (đã ít hơn tới 600 triệu đồng so với việc chia theo thông báo về việc xử lý tiền trước đó). Bên cạnh đó, những người được thi hành án theo Thông báo số 200/TB-CCTHAD không được nhận tiền (trường hợp thuộc bản án khác) nhưng theo Thông báo số 117/TB-CCTHADS thì lại được nhận tiền.

Rõ ràng, giữa hai lần phân phối tiền thi hành án đã có sự chênh lệch rất lớn về số tiền của mỗi người được thi hành án được nhận.

Nguyên nhân của tình trạng chênh lệch như trên là do hướng dẫn của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự, có hiệu lực từ ngày 01/9/2015 (Nghị định số 62/2015/NĐ-CP) và Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 01/5/2020 (Nghị định số 33/2020/NĐ-CP) có sự khác nhau về trường hợp thi hành án đối với những người được thi hành án trong cùng một bản án.

3. Áp dụng điều khoản chuyển tiếp sao cho đúng trong việc xử lý tiền thi hành án

3.1. Thực tiễn xử lý tiền thi hành án theo Nghị định số 62/2015/NĐ-CP

Khoản 1 Điều 49 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định:

“Trường hợp thanh toán tiền thi hành án theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự thì Chấp hành viên xác định số tiền được thanh toán của những người được thi hành án đã yêu cầu thi hành án tính đến thời điểm có quyết định cưỡng chế.

Trường hợp bản án, quyết định đang do cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành xác định nhiều người được thi hành án nhưng chỉ một hoặc một số người yêu cầu thi hành án mà tài sản của người phải thi hành án không đủ để thi hành nghĩa vụ tài sản theo bản án, quyết định thì cơ quan thi hành án dân sự thanh toán cho người đã yêu cầu thi hành án theo tỉ lệ mà họ được nhận, số tiền còn lại gửi vào ngân hàng theo loại tiền gửi kỳ hạn 01 tháng, đồng thời thông báo và ấn định thời hạn không quá 01 tháng cho những người được thi hành án chưa yêu cầu về quyền yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp đã hết thời hiệu.

Hết thời hạn thông báo mà cơ quan thi hành án dân sự không nhận được yêu cầu thi hành án thì số tiền đã gửi và tiền lãi được thanh toán tiếp cho những người đã có yêu cầu thi hành án tính đến thời điểm hết thời hạn thông báo; số tiền còn lại, nếu có, được thanh toán cho những người được thi hành án theo các quyết định thi hành án khác tính đến thời điểm thanh toán hoặc trả lại cho người phải thi hành án”.

Thực tiễn khi thực hiện hướng dẫn này thì trong trường hợp những người được thi hành án trong cùng một bản án, quyết định của Tòa án sẽ cùng hàng thứ tự ưu tiên thanh toán mà không lệ thuộc vào việc nộp đơn yêu cầu thi hành án trước hay sau thời điểm chấp hành viên ban hành quyết định cưỡng chế kê biên tài sản để thi hành án. Căn cứ vào quy định này của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP thì cách xử lý theo Thông báo số 200/TB-CCTHADS là phù hợp.

3.2. Cần áp dụng thống nhất điều khoản chuyển tiếp

Nghị định số 33/2020/NĐ-CP có hiệu lực vào ngày 01/5/2020 đã có hướng dẫn về thứ tự ưu tiên thanh toán khác với hướng dẫn của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP. Tuy nhiên, Điều 3 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP có quy định về việc chuyển tiếp các quy định của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP trong một số trường hợp cụ thể như sau: “Đối với việc thi hành án đã thi hành một phần hoặc chưa thi hành xong trước khi Nghị định này có hiệu lực thi hành nhưng đã thực hiện các thủ tục về thi hành án theo đúng quy định của Luật Thi hành án dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành thì kết quả thi hành án được công nhận; các thủ tục thi hành án tiếp theo được tiếp tục thực hiện theo quy định của Nghị định này”. Tuy nhiên, việc áp dụng quy định chuyển tiếp của Nghị định số 33/2020/NĐ-CP còn nhiều quan điểm khác nhau:

Quan điểm thứ nhất: Do thủ tục thanh toán tiền thi hành án được thực hiện trong giai đoạn Nghị định số 33/2020/NĐ-CP có hiệu lực nên không thể áp dụng điều khoản chuyển tiếp. Do đó, việc ra Thông báo số 117/TB-CCTHADS là phù hợp với quy định pháp luật.

Quan điểm thứ hai: Căn cứ vào thời điểm Bản án có hiệu lực pháp luật, thời điểm này trong giai đoạn Nghị định số 62/2015/NĐ-CP có hiệu lực nên được áp dụng chuyển tiếp. Do đó, việc ra Thông báo số 200/TB-CCTHADS là phù hợp với quy định pháp luật.

Quan điểm thứ ba (cũng là quan điểm của tác giả): Cả hai quan điểm về áp dụng pháp luật của chấp hành viên qua hai lần phân phối đều không phù hợp với các quy định của pháp luật. Trong trường hợp này cần áp dụng điều khoản chuyển tiếp nhưng thời điểm để tính việc chuyển tiếp phải là thời điểm các đương sự nộp đơn yêu cầu thi hành án. Bởi vì, khi nộp đơn yêu cầu thi hành án trước thời điểm Nghị định số 33/2020/NĐ-CP có hiệu lực thì đã phát sinh thủ tục thi hành án đối với việc thi hành án đó. Đồng thời, khi nộp đơn yêu cầu thi hành án, các đương sự vẫn cho rằng Nghị định số 62/2015/NĐ-CP còn hiệu lực thi hành, họ không thể biết trước được có sự thay đổi từ những quy định của Nghị định số 33/2020/NĐ-CP nên không thể không áp dụng điều khoản chuyển tiếp để tước bỏ quyền lợi của các đương sự nộp đơn yêu cầu thi hành án trước thời điểm Nghị định số 33/2020/NĐ-CP có hiệu lực.

Mặt khác, khi xây dựng hoặc thay đổi một chính sách pháp luật khác so với các văn bản pháp luật trước đó thì các văn bản pháp luật đều có điều khoản chuyển tiếp để bảo lưu các quyền lợi của các đương sự theo các văn bản pháp luật trước đó. Vì vậy, tác giả kiến nghị cần hướng dẫn nghiệp vụ về việc áp dụng điều khoản chuyển tiếp của Nghị định số 33/2020/NĐ-CP một cách thống nhất theo hướng như quan điểm thứ ba.

4. Xác định số tiền thi hành án phân phối sao cho phù hợp

Theo quan điểm thứ ba đã nêu trên về áp dụng quy định chuyển tiếp của Nghị định số 33/2020/NĐ-CP thì số tiền thi hành án sẽ được phân phối cụ thể như sau: Số tiền còn lại, sau khi trừ án phí, chi phí, thuế… là hơn 12 tỷ đồng:

- Hàng ưu tiên thứ nhất là Ngân hàng được nhận hơn 7,8 tỷ đồng (do có thế chấp tài sản bảo đảm), còn lại khoảng 4,2 tỷ đồng.

- Hàng ưu tiên thứ hai là những người đã nộp đơn yêu cầu thi hành án trước thời điểm Nghị định số 33/2020/NĐ-CP có hiệu lực pháp luật: Chị B nhận 420 triệu đồng, chị D nhận hơn 1,54 tỷ đồng, bà Đ nhận 500 triệu đồng, anh B nhận hơn 141 triệu đồng (vì đã được trả một phần), anh K nhận 98 triệu đồng, bà A nhận 165 triệu đồng (vàng quy đổi ra tiền), bà C nhận 174 triệu đồng, anh N nhận 173 triệu đồng, chị T và anh V nhận 1,15 tỷ đồng. Tổng số tiền nợ là hơn 4,36 tỷ đồng, trong khi số tiền thi hành án còn lại là 4,2 tỷ đồng. Như vậy, mỗi người trong hàng ưu tiên này được nhận là 96,33% trên số tiền nợ gốc của mình.

- Những người được thi hành án còn lại không được nhận tiền xử lý tài sản vì nộp đơn yêu cầu sau thời điểm Nghị định số 33/2020/NĐ-CP có hiệu lực pháp luật nên không áp dụng điều khoản chuyển tiếp.

Trần Tú Anh & Huỳnh Minh Khánh

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thực hiện công tác bồi thường nhà nước trong bối cảnh tổ chức chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện công tác bồi thường nhà nước trong bối cảnh tổ chức chính quyền địa phương hai cấp

Từ ngày 01/7/2025, chính quyền địa phương ở Việt Nam được tổ chức theo mô hình 02 cấp: Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (cấp tỉnh) và xã, phường, đặc khu trực thuộc cấp tỉnh (cấp xã).
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ pháp luật cho các tổ chức, cá nhân khu vực phía Nam

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ pháp luật cho các tổ chức, cá nhân khu vực phía Nam

Đối với khu vực phía Nam - nơi tập trung đông dân cư, nhiều trung tâm kinh tế trọng điểm và có sự đa dạng về điều kiện kinh tế - xã hội đang đối mặt với thách thức không nhỏ trong việc nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật và kỹ năng, nghiệp vụ pháp luật cho các tổ chức, cá nhân. Đây không chỉ là nhiệm vụ của hệ thống chính trị mà còn là trách nhiệm xã hội của các cơ sở đào tạo pháp luật trong cả nước, trong đó có Trường Cao đẳng Luật miền Nam (sau đây gọi là Trường) - với vai trò là cơ sở đào tạo pháp luật thuộc Bộ Tư pháp xác định sứ mệnh đồng hành cùng địa phương, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật tại chỗ thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, chuyên môn, nghiệp vụ pháp luật.
Công tác đào tạo cao đẳng, trung cấp pháp luật; bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp cho các tổ chức, cá nhân khu vực miền Trung - Tây Nguyên - Kết quả và định hướng

Công tác đào tạo cao đẳng, trung cấp pháp luật; bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp cho các tổ chức, cá nhân khu vực miền Trung - Tây Nguyên - Kết quả và định hướng

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là nhiệm vụ “then chốt”, trong đó, giáo dục nghề nghiệp giữ vai trò quan trọng trong đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, các nghị định hướng dẫn thi hành và các văn bản pháp luật có liên quan đã tạo hành lang pháp lý cho đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo nghề, trong đó có ngành Luật. Nhiều nghị quyết của Bộ Chính trị nhấn mạnh, cần đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp luật có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn để nâng cao hiệu quả quản lý và thực thi pháp luật. Miền Trung - Tây Nguyên là khu vực rộng lớn, đa dạng về văn hóa - xã hội, với nhiều địa bàn đặc thù như vùng cao, vùng biên giới, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Đây cũng là những nơi chịu nhiều tác động tiêu cực từ điều kiện kinh tế, thiên tai, hạ tầng giáo dục và pháp lý chưa đồng đều. Trong bối cảnh đó, việc tăng cường công tác đào tạo pháp luật và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ cơ sở, người dân và các đối tượng chuyên môn tại khu vực này không chỉ là nhiệm vụ chuyên môn, mà còn thể hiện trách nhiệm xã hội sâu sắc của ngành Tư pháp, góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo bền vững và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa từ cơ sở
Trường Đại học Luật Hà Nội - Trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật cho ngành Tư pháp và đất nước

Trường Đại học Luật Hà Nội - Trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật cho ngành Tư pháp và đất nước

Kể từ khi thành lập (ngày 10/11/1979) đến nay, được sự tin tưởng của Đảng và Nhà nước, Trường Đại học Luật Hà Nội tự hào là một trong những cơ sở đào tạo và nghiên cứu pháp luật hàng đầu của Việt Nam và tiếp tục được Chính phủ xác định là trường trọng điểm đào tạo cán bộ pháp luật theo Quyết định số 1156/QĐ-TTg ngày 30/9/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án tổng thể “Tiếp tục xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật”.
Đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Học viện Tư pháp là cơ sở đào tạo nghề luật đầu tiên trực thuộc Bộ Tư pháp và cũng là trung tâm lớn nhất đào tạo chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp của đất nước, trải qua 27 năm, hoạt động đào tạo các chức danh tư pháp và bổ trợ tư pháp của Học viện Tư pháp đã đạt được những thành tựu quan trọng, đóng góp nhiều vào sự phát triển nguồn nhân lực tư pháp của đất nước, Bộ, ngành Tư pháp và xã hội.
Văn phòng Bộ Tư pháp: Tự hào truyền thống - Đổi mới phát triển

Văn phòng Bộ Tư pháp: Tự hào truyền thống - Đổi mới phát triển

Văn phòng Bộ Tư pháp (sau đây gọi tắt là Văn phòng) - đơn vị có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và quản lý các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, tổng hợp, theo dõi, đôn đốc các đơn vị thuộc Bộ thực hiện chương trình, kế hoạch công tác của Bộ đã được phê duyệt; tham mưu, điều phối, thực hiện công tác truyền thông đối với hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và quản lý báo chí, xuất bản; tổ chức thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính, kiểm soát thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính, công tác hành chính, văn thư, lưu trữ, bảo vệ bí mật nhà nước, quản trị, tài chính, bảo vệ, quân sự, y tế của cơ quan Bộ theo quy định của pháp luật. Văn phòng được giao nhiệm vụ tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Văn phòng chính là “cầu nối” giữa Lãnh đạo Bộ và các đơn vị thuộc Bộ, góp phần bảo đảm sự vận hành thông suốt, hiệu quả trong toàn ngành Tư pháp.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý - Kết quả đạt được và một số định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý - Kết quả đạt được và một số định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bài viết về kết quả đạt được của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới.
Công tác đăng ký biện pháp bảo đảm và bồi thường nhà nước - Thành tựu đạt được và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Công tác đăng ký biện pháp bảo đảm và bồi thường nhà nước - Thành tựu đạt được và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Bài viết về thành tựu đạt được của công tác đăng ký biện pháp bảo đảm, bồi thường nhà nước và định hướng phát triển trong giai đoạn mới.
Công tác xuất bản phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp - Thành tựu đạt được và định hướng phát triển

Công tác xuất bản phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp - Thành tựu đạt được và định hướng phát triển

Nhà xuất bản Tư pháp là cơ quan của Bộ Tư pháp, có chức năng, nhiệm vụ xuất bản các xuất bản phẩm nhằm phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước của Bộ, ngành Tư pháp, nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp luật, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Kết quả thực hiện trợ giúp pháp lý trong ngành Kiểm sát nhân dân

Kết quả thực hiện trợ giúp pháp lý trong ngành Kiểm sát nhân dân

Thực hiện Chiến lược phát triển và mục tiêu đổi mới công tác trợ giúp pháp lý, trong những năm qua, ngành Kiểm sát nhân dân luôn tích cực, trách nhiệm hoàn thành tốt nhiệm vụ, đạt được những kết quả đáng ghi nhận.
Trợ giúp viên pháp lý Hà Nội với thách thức mới từ cải cách hành chính và công nghệ số

Trợ giúp viên pháp lý Hà Nội với thách thức mới từ cải cách hành chính và công nghệ số

Bài viết về một số khó khăn và đề xuất giải pháp để phát huy vai trò của trợ giúp viên pháp lý tại thành phố Hà Nội trong bối cảnh tổ chức lại chính quyền địa phương hai cấp và đẩy mạnh chuyển đổi số.
Thời điểm mở thừa kế của người bị tuyên bố chết theo quy định Bộ luật Dân sự

Thời điểm mở thừa kế của người bị tuyên bố chết theo quy định Bộ luật Dân sự

Bài viết về những hạn chế, bất cập trong thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về việc xác định thời điểm mở thừa kế trong trường hợp người để lại di sản thừa kế bị tuyên bố chết theo quyết định của Tòa án.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý

Đây là quy định mới theo Nghị định số 121/2025/NĐ-CP ngày 11/6/2025 của Chính phủ quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, áp dụng từ ngày 01/7/2025 đến hết ngày 28/02/2025.
Nâng cao hiệu quả công tác cải cách thể chế trên địa bàn tỉnh Lai Châu

Nâng cao hiệu quả công tác cải cách thể chế trên địa bàn tỉnh Lai Châu

Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu là cơ quan tham mưu giúp Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật, theo dõi tình hình thi hành pháp luật, kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật. Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm góp phần hoàn thiện và cải cách thể chế trên địa bàn tỉnh.
Những vấn đề cần giải quyết khi chuyển đổi số trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật Việt Nam hiện nay

Những vấn đề cần giải quyết khi chuyển đổi số trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật Việt Nam hiện nay

Chuyển đổi số là xu thế tất yếu để đổi mới phương thức phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), nâng cao nhận thức và khả năng tiếp cận pháp luật cho người dân, doanh nghiệp. Bài viết phân tích thực trạng PBGDPL tại Việt Nam, đồng thời tiếp cận các mô hình chuyển đổi số tiên tiến trên thế giới, từ đó đưa ra giải pháp và khuyến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động PBGDPL trong nước theo hướng hiện đại và bền vững.

Theo dõi chúng tôi trên: