Từ khóa: người giám định tư pháp; tổ chức giám định tư pháp; tố tụng.
Abstract: Forensic expert conclusion is one of the important sources of evidence, used as a basis for resolving cases and incidents, helping competent authorities conduct proceedings to prove crimes. The article analyzes the provisions of law and the current status of organization and operation of the judicial expert team and judicial expert organizations, thereby proposing a number of solutions to improve the quality of this subject to ensure accuracy, objectivity and efficiency in litigation activities.
Keywords: Judicial expert; judicial expert organization; litigation.
Đặt vấn đề
Những năm qua, đội ngũ giám định tư pháp, tổ chức giám định tư pháp đã được quan tâm, củng cố, kiện toàn về số lượng và chất lượng. Hoạt động giám định tư pháp ngày càng nền nếp, khẳng định được hiệu quả, chất lượng, góp phần giải quyết kịp thời, đúng đắn các vụ việc dân sự, hành chính, vụ án hình sự, nhất là trong các lĩnh vực có tổ chức giám định tư pháp công lập.
Tuy nhiên, một số lĩnh vực không có tổ chức giám định tư pháp công lập, người giám định tư pháp hoạt động kiêm nhiệm phần nào chưa đáp ứng được yêu cầu của hoạt động tố tụng, nhất là vụ án, vụ việc phức tạp, liên quan đến các lĩnh vực, chuyên ngành mới phát sinh; tổ chức giám định tư pháp chưa bảo đảm được các điều kiện cần thiết để thực hiện giám định.
Trước thực trạng này, việc nâng cao chất lượng người giám định tư pháp và tổ chức giám định tư pháp là hết sức cần thiết. Bài viết phân tích quy định của pháp luật, thực trạng của đội ngũ giám định tư pháp, tổ chức giám định tư pháp, từ đó, đưa ra một số giải pháp nhằm củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ người giám định tư pháp, tổ chức giám định tư pháp, bảo đảm tính chính xác, khách quan, chất lượng của kết luận giám định tư pháp; qua đó, góp phần bảo đảm việc giải quyết vụ án, vụ việc của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kịp thời, công bằng, đúng pháp luật, nâng cao chất lượng của hoạt động tố tụng trên thực tế.
Khoản 4 Điều 2 Luật Giám định tư pháp năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020 (Luật Giám định tư pháp năm 2012) quy định: “Cá nhân, tổ chức giám định tư pháp bao gồm giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp công lập, tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập và tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc”.
1.1. Người giám định tư pháp
Theo khoản 5 Điều 2 Luật Giám định tư pháp năm 2012, người giám định tư pháp gồm giám định viên tư pháp và người giám định tư pháp theo vụ việc. Trên thực tế, giám định viên tư pháp hoạt động chủ yếu ở các lĩnh vực có tổ chức giám định tư pháp công lập là pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự; người giám định tư pháp theo vụ việc thường được công nhận ở các lĩnh vực không có tổ chức giám định tư pháp công lập như tài chính, ngân hàng, xây dựng, nông nghiệp, môi trường, văn hóa, công thương…
1.1.1. Giám định viên tư pháp
Theo khoản 1 Điều 7 Luật Giám định tư pháp năm 2012, công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam có đủ các tiêu chuẩn sau có thể được xem xét, bổ nhiệm giám định viên tư pháp: (i) có sức khỏe, phẩm chất đạo đức tốt; (ii) có trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế hoạt động chuyên môn ở lĩnh vực được đào tạo từ đủ 05 năm trở lên; trường hợp người được đề nghị bổ nhiệm giám định viên pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự đã trực tiếp giúp việc trong hoạt động giám định ở tổ chức giám định pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự thì thời gian hoạt động thực tế chuyên môn từ đủ 03 năm trở lên; (iii) đối với người được đề nghị bổ nhiệm giám định viên tư pháp trong lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự phải có chứng chỉ đã qua đào tạo hoặc bồi dưỡng nghiệp vụ giám định. Đồng thời, tại khoản 2 Điều 7 Luật Giám định tư pháp năm 2012 cũng quy định các trường hợp không được bổ nhiệm giám định viên tư pháp.
Trên cơ sở quy định về tiêu chuẩn chung của giám định viên tư pháp, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quản lý chuyên ngành về giám định sẽ quy định, hướng dẫn chi tiết tiêu chuẩn đối với giám định viên tư pháp ở lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý.
1.1.2. Người giám định tư pháp theo vụ việc
Tiêu chuẩn của người giám định tư pháp theo vụ việc được quy định tại khoản 1 Điều 18 Luật Giám định tư pháp năm 2012, theo đó, công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam có đủ các các tiêu chuẩn sau có thể được lựa chọn làm người giám định tư pháp theo vụ việc: (i) có sức khỏe, phẩm chất đạo đức tốt; (ii) có trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế hoạt động chuyên môn ở lĩnh vực được đào tạo từ đủ 05 năm trở lên. Trường hợp người không có trình độ đại học nhưng có kiến thức chuyên sâu và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn về lĩnh vực cần giám định thì có thể được lựa chọn làm người giám định tư pháp theo vụ việc.
Các bộ, cơ quan ngang bộ quản lý chuyên môn về lĩnh vực giám định tư pháp và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm lựa chọn, lập và công bố danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc ở lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý để đáp ứng yêu cầu giám định của hoạt động tố tụng theo quy định tại Điều 20 Luật Giám định tư pháp năm 2012.
1.2. Tổ chức giám định tư pháp
Tổ chức giám định tư pháp gồm tổ chức giám định tư pháp công lập, tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập và tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc.
1.2.1. Tổ chức giám định tư pháp công lập
Điều 12 Luật Giám định tư pháp năm 2012 quy định: “Tổ chức giám định tư pháp công lập được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập trong lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự”. Cụ thể:
- Về tổ chức giám định tư pháp công lập trong lĩnh vực pháp y: ở trung ương, có 03 tổ chức gồm: (i) Viện pháp y quốc gia thuộc Bộ Y tế; (ii) Viện pháp y quân đội thuộc Bộ Quốc phòng; (iii) Trung tâm giám định pháp y thuộc Viện khoa học hình sự, Bộ Công an. Ở địa phương, có Trung tâm pháp y cấp tỉnh. Bên cạnh đó, căn cứ vào nhu cầu và điều kiện thực tế của địa phương, Phòng kỹ thuật hình sự thuộc Công an cấp tỉnh có giám định viên pháp y thực hiện giám định pháp y tử thi.
- Về tổ chức giám định tư pháp công lập trong lĩnh vực kỹ thuật hình sự: ở trung ương, có 03 tổ chức gồm: (i) Viện khoa học hình sự thuộc Bộ Công an; (ii) Phòng giám định kỹ thuật hình sự thuộc Bộ Quốc phòng; (iii) Phòng giám định kỹ thuật hình sự thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, thực hiện giám định về âm thanh, hình ảnh từ các dữ liệu điện tử. Ở địa phương, có Phòng kỹ thuật hình sự thuộc Công an cấp tỉnh.
- Về tổ chức giám định tư pháp công lập trong lĩnh vực pháp y tâm thần: khác với lĩnh vực pháp y và lĩnh vực kỹ thuật hình sự, tổ chức giám định tư pháp công lập trong lĩnh vực pháp y tâm thần có Viện pháp y tâm thần trung ương và Trung tâm pháp y tâm thần khu vực đều thuộc quản lý của Bộ Y tế.
1.2.2. Tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập
Theo Điều 14 và Điều 15 Luật Giám định tư pháp năm 2012, tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập là Văn phòng giám định tư pháp, được thành lập trong ba lĩnh vực tài chính, ngân hàng, xây dựng và ba chuyên ngành thuộc lĩnh vực văn hóa là cổ vật, di vật, bản quyền tác giả.
Giám định viên tư pháp được thành lập Văn phòng giám định tư pháp khi có đủ các điều kiện sau: (i) có từ đủ 03 năm trở lên là giám định viên tư pháp và có hoạt động giám định trong lĩnh vực đề nghị thành lập Văn phòng; (ii) có Đề án thành lập theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 16 Luật Giám định tư pháp năm 2012. Cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan quân đội, sĩ quan công an nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng không được thành lập Văn phòng giám định tư pháp.
1.2.3. Tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc
Theo khoản 1 Điều 19 Luật Giám định tư pháp năm 2012, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc phải có đủ các điều kiện sau: (i) có tư cách pháp nhân; (ii) có hoạt động chuyên môn phù hợp với nội dung được trưng cầu, yêu cầu giám định; (iii) có điều kiện về cán bộ chuyên môn, cơ sở vật chất bảo đảm cho việc thực hiện giám định tư pháp. Đối với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ thực hiện giám định tư pháp theo trưng cầu của người trưng cầu giám định.
Các bộ, cơ quan ngang bộ quản lý chuyên môn về lĩnh vực giám định tư pháp và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm lựa chọn, lập và công bố danh sách tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc ở lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý để đáp ứng yêu cầu giám định của hoạt động tố tụng theo quy định tại Điều 20 Luật Giám định tư pháp năm 2012.
Ngoài các cá nhân, tổ chức giám định tư pháp trên, theo khoản 2 Điều 20 Luật Giám định tư pháp năm 2012, trong trường hợp đặc biệt, người trưng cầu giám định có thể trưng cầu cá nhân, tổ chức chuyên môn có đủ tiêu chuẩn, điều kiện quy định tại Điều 18 và Điều 19 Luật Giám định tư pháp năm 2012 không thuộc danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc đã công bố để thực hiện giám định nhưng phải nêu rõ lý do trong quyết định trưng cầu.
Thực hiện quy định của Luật Giám định tư pháp năm 2012 và hệ thống văn bản hướng dẫn về giám định tư pháp, đội ngũ người giám định tư pháp và tổ chức giám định tư pháp ngày càng được củng cố về số lượng và nâng cao về chất lượng, cơ bản đáp ứng được yêu cầu của hoạt động tố tụng. Tính đến ngày 31/12/2024, toàn quốc có 7.933 giám định viên tư pháp, 3.517 người giám định tư pháp theo vụ việc, 139 tổ chức giám định tư pháp công lập; 02 Văn phòng giám định tư pháp và 733 tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc.
Hiện, hoạt động của đội ngũ giám định viên tư pháp làm việc chuyên trách trong các tổ chức giám định tư pháp công lập đã đi vào nền nếp, bài bản. Kết quả này xuất phát từ quy định chặt chẽ của pháp luật về tiêu chuẩn bổ nhiệm giám định viên tư pháp trong ba lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự. Theo đó, ngoài các tiêu chuẩn chung thì đối tượng này phải có chứng chỉ đã qua đào tạo hoặc bồi dưỡng nghiệp vụ giám định. Thực hiện quy định của pháp luật, trong những năm qua, Bộ Công an, Bộ Y tế đã quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng như kiến thức pháp lý cho đội ngũ giám định tư pháp. Theo thống kê, từ năm 2018 đến ngày 30/6/2023, Bộ Công an, Bộ Y tế đã chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp tổ chức 36 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ giám định tiền bổ nhiệm cho đội ngũ giám định chuyên trách trong lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự, trong đó có phần kiến thức pháp lý về giám định tư pháp (pháp y có 12 lớp, pháp y tâm thần có 04 lớp, kỹ thuật hình sự có 20 lớp)[1].
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, tổ chức và hoạt động của người giám định tư pháp, tổ chức giám định tư pháp còn tồn tại một số vấn đề sau:
2.1. Người giám định tư pháp
Thứ nhất, một bộ phận người giám định tư pháp còn thiếu kiến thức pháp luật và nghiệp vụ giám định khi thực hiện giám định tư pháp.
Đối với các lĩnh vực không có tổ chức giám định tư pháp công lập (tài chính, ngân hàng, xây dựng, văn hóa, nông nghiệp, môi trường, công thương…), người giám định tư pháp chủ yếu dựa vào kiến thức chuyên môn thuần túy để thực hiện, kết luận giám định tư pháp. Thực trạng này xuất phát từ việc đội ngũ giám định tư pháp trong các lĩnh vực trên chủ yếu là cán bộ, công chức, viên chức làm việc tại các bộ, sở, ngành là các cơ quan, đơn vị nhà nước, thực hiện giám định theo hình thức kiêm nhiệm. Người giám định tư pháp phải thực hiện các nhiệm vụ công vụ, chuyên môn thường xuyên tại cơ quan, đơn vị và chỉ tham gia vào hoạt động giám định tư pháp khi có trưng cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó, đội ngũ giám định tư pháp chưa được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức pháp lý về giám định tư pháp; nhất là không được bồi dưỡng, cập nhật thường xuyên các kiến thức, kỹ năng này sau khi được bổ nhiệm giám định viên tư pháp, công nhận người giám định tư pháp theo vụ việc.
Thứ hai, Điều 7, Điều 18 Luật Giám định tư pháp năm 2012 và pháp luật có liên quan chưa quy định tiêu chuẩn của người được đề nghị bổ nhiệm giám định viên tư pháp, công nhận người giám định tư pháp theo vụ việc phải được đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức pháp lý và nghiệp vụ giám định tư pháp ở lĩnh vực hoặc chuyên ngành, chuyên môn được đề nghị bổ nhiệm; chưa có quy định cụ thể về bộ quy tắc đạo đức của giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc. Theo Điều 87 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021, kết luận giám định là một trong những nguồn chứng cứ để làm sáng tỏ vụ án; có ý nghĩa quan trọng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua, đã xuất hiện một số sai phạm của người giám định tư pháp trong quá trình thực hiện, kết luận giám định tư pháp, gây sai lệch, ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án, vụ việc cũng như ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, chất lượng hoạt động giám định của các tổ chức giám định, người giám định tư pháp. Nguyên nhân của thực trạng này xuất phát từ việc đội ngũ giám định tư pháp chưa được bồi dưỡng thường xuyên về pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp khi tham gia công việc giám định tư pháp; các cơ quan, đơn vị chủ quản của người giám định tư pháp chưa thực sự quan tâm đến công tác giám định, chưa xác định được vai trò quan trọng của kết luận giám định đối với hoạt động tố tụng, từ đó, tuyên truyền, phổ biến, quán triệt, nâng cao nhận thức của người thực hiện giám định.
Thứ ba, việc tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về tôn vinh, khen thưởng, chế độ, chính sách cho đội ngũ giám định tư pháp nhằm thu hút những cá nhân có chuyên môn, các chuyên gia giỏi tham gia giám định, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám định tư pháp chưa thực sự được các bộ, ngành chủ quản quan tâm, chú trọng[2].
2.2. Tổ chức giám định tư pháp
Thứ nhất, đối với hệ thống tổ chức giám định tư pháp công lập: Điều 12 Luật Giám định tư pháp năm 2012 quy định, tại địa phương có Trung tâm pháp y cấp tỉnh là tổ chức giám định tư pháp công lập về pháp y, thực hiện các loại hình pháp y trên người sống và pháp y tử thi; tại Phòng kỹ thuật hình sự thuộc Công an cấp tỉnh có giám định viên pháp y thực hiện giám định pháp y tử thi. Quy định này dẫn đến sự trùng lặp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức giám định pháp y tại địa phương, nhất là trong bối cảnh thực hiện tinh gọn bộ máy hiện nay.
Bên cạnh đó, một số tổ chức giám định tư pháp công lập còn chưa được bộ, ngành, địa phương quan tâm, tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện chuyên dụng để phục vụ công tác giám định trong khi tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp và sử dụng các công nghệ cao, hiện đại. Vì vậy, chất lượng hoạt động và hoạt động của các tổ chức giám định tư pháp công lập chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Thứ hai, việc lựa chọn, công nhận tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc của các bộ, ngành, địa phương chưa thực sự bám sát nhu cầu thực tiễn của hoạt động tố tụng mà chủ yếu lựa chọn các đơn vị, sở, ngành chuyên môn thuộc bộ, ngành, địa phương để tham gia hoạt động giám định. Do đó, việc thực hiện giám định của các đơn vị, cơ quan nhà nước chưa được bảo đảm, chưa được cơ quan chủ quản tạo điều kiện, ưu tiên sử dụng cơ sở vật chất, máy móc chuyên dụng để thực hiện giám định làm ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng giám định.
Thứ ba, từ thời điểm Luật Giám định tư pháp năm 2012 có hiệu lực đến nay, cả nước chỉ có 02 Văn phòng giám định tư pháp được thành lập trong lĩnh vực tài chính, tuy nhiên, hoạt động cầm chừng, chưa hiệu quả, chưa giám định được nhiều vụ việc, chưa đạt được kỳ vọng của chính sách, pháp luật này[3]. Một phần nguyên nhân là do quy định của Luật Giám định tư pháp năm 2012 về phạm vi thành lập Văn phòng giám định tư pháp chưa phù hợp. Một số lĩnh vực được phép thành Văn phòng giám định tư pháp chưa phải là lĩnh vực có nhu cầu lớn, số lượng vụ việc phát sinh thường xuyên chưa nhiều để thành lập tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập và duy trì hoạt động của tổ chức này được khả thi, hiệu quả như các chuyên ngành di vật, cổ vật, bản quyền tác giả. Mặt khác, các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chưa quan tâm trưng cầu các tổ chức ngoài khu vực nhà nước, mà vẫn có xu hướng trưng cầu cơ quan, tổ chức nhà nước để thực hiện giám định. Vì vậy, chủ trương xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp chưa thực sự phát huy hiệu quả trên thực tế.
3. Một số yêu cầu của hoạt động tố tụng đối với người giám định tư pháp, tổ chức giám định tư pháp
Để bảo đảm kết luận giám định tư pháp là nguồn chứng cứ chất lượng, hỗ trợ các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chứng minh tội phạm, xác định sự thật của vụ án, vụ việc, hoạt động tố tụng đặt ra một số yêu cầu đối với đội ngũ người giám định tư pháp, tổ chức giám định tư pháp khi thực hiện giám định tư pháp như sau:
Thứ nhất, người giám định tư pháp cần có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm hoạt động, kiến thức vững chắc trong lĩnh vực giám định mà họ được bổ nhiệm là giám định viên tư pháp hoặc công nhận là người giám định tư pháp theo vụ việc; đồng thời, thường xuyên cập nhật các kiến thức mới về pháp luật, chuyên môn và phương pháp giám định trong lĩnh vực hoạt động.
Thứ hai, người giám định tư pháp, tổ chức giám định tư pháp cần bảo đảm sự độc lập, khách quan và vô tư khi thực hiện giám định tư pháp, không bị chi phối bởi bất kỳ một chủ thể hay lợi ích nào trong quá trình tham gia tố tụng. Kết luận giám định tư pháp được dựa trên các kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, trên cơ sở sử dụng các phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật và tuân theo quy trình giám định, quy chuẩn chuyên môn do cơ quan có thẩm quyền ban hành.
Thứ ba, người giám định tư pháp phải có đạo đức, bản lĩnh nghề nghiệp, không lợi dụng danh nghĩa giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc hay lợi dụng việc thực hiện giám định tư pháp để trục lợi. Tổ chức giám định tư pháp cần phải có các quy chế, quy định về đạo đức để bảo đảm công việc giám định được thực hiện chuyên nghiệp, đúng đắn và khách quan.
Thứ tư, người giám định tư pháp, tổ chức giám định tư pháp phải thực hiện giám định đúng thời hạn, bảo đảm không ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết vụ án, vụ việc; kết luận giám định phải bảo đảm tính toàn diện, xem xét đầy đủ các khía cạnh của các nội dung yêu cầu giám định; có sự thông tin, phối hợp hiệu quả với người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi được yêu cầu.
4. Một số kiến nghị, giải pháp
Thứ nhất, hoàn thiện quy định của pháp luật theo hướng nâng cao tiêu chuẩn của người được đề nghị bổ nhiệm giám định viên tư pháp, công nhận người giám định tư pháp theo vụ việc. Ở một số quốc gia trên thế giới, mặc dù có sự khác nhau về cách thức, thủ tục bổ nhiệm hoặc công nhận, ghi danh giám định viên giữa các nước nhưng các tiêu chí, điều kiện để trở thành người giám định về cơ bản là giống nhau, nhất là những tiêu chí về chuyên môn, kinh nghiệm thực tế, điều kiện về sức khỏe, thời gian, phẩm chất, tư cách và những điều kiện cần thiết cho việc tham gia hoạt động giám định tư pháp. Thậm chí, ở một số nước còn đặt điều kiện về tình hình kinh tế, tài chính phải ổn định, nền nếp, không phải là người bị phá sản, nợ nần4. Ở Việt Nam, về cơ bản, tiêu chuẩn của người được đề nghị bổ nhiệm giám định viên tư pháp, công nhận người giám định tư pháp theo vụ việc đã tương đối phù hợp, song, nghiên cứu cho thấy, cần bổ sung tiêu chí về đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ như đã hoàn thành khóa đào tạo hoặc bồi dưỡng về kiến thức, nghiệp vụ giám định tư pháp để trang bị cho người giám định tư pháp kiến thức bài bản, kỹ năng vững vàng khi tham gia hoạt động giám định tư pháp cũng như tham dự phiên tòa để bảo vệ kết luận giám định. Đồng thời, cần nghiên cứu bổ sung quy định về quy tắc, đạo đức hành nghề dành cho giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc.
Thứ hai, cần bổ sung quy định hằng năm giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc phải được tập huấn, cập nhật kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ về giám định tư pháp, đạo đức hành nghề để bảo đảm việc thực hiện giám định khách quan, chính xác, công tâm, đúng nghĩa là công tác của nhà chuyên môn, sử dụng kiến thức chuyên môn để kết luận các vấn đề có liên quan đến hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính.
Thứ ba, đối với hệ thống tổ chức giám định tư pháp công lập: trước mắt, cần ban hành quy chế phối hợp giữa pháp y y tế và pháp y công an ở cấp trung ương, trên cơ sở đó, tổ chức, triển khai thực hiện cụ thể, thống nhất ở các địa phương nhằm nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác trưng cầu, tiếp nhận và thực hiện giám định pháp y, bảo đảm việc giám định được tiến hành thuận lợi, tuân thủ đúng quy định, thời hạn của pháp luật. Tuy nhiên, về lâu dài, cần hoàn thiện hệ thống tổ chức giám định tư pháp công lập, nhất là tổ chức giám định tư pháp công lập về pháp y ở địa phương để bảo đảm đầu tư hiệu quả về nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác giám định của Nhà nước, đáp ứng mục tiêu tinh gọn, sắp xếp bộ máy trong thời gian tới.
Thứ tư, mở rộng phạm vi thành lập Văn phòng giám định tư pháp tại Luật Giám định tư pháp năm 2012 đối với các lĩnh vực mà xã hội, người dân có nhu cầu lớn. Hoàn thiện cơ chế huy động nguồn lực để xã hội hóa và phát triển lĩnh vực giám định tư pháp; xây dựng đội ngũ hành nghề giám định tư pháp đủ về số lượng và bảo đảm chất lượng, hoạt động chuyên nghiệp, tuân thủ pháp luật và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội5.
Thứ nhất, bộ, ngành, địa phương cần quan tâm để lựa chọn, công nhận tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc bám sát vào nhu cầu thực tiễn của hoạt động tố tụng; quan tâm đầu tư, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác giám định cho các tổ chức giám định tư pháp thuộc thẩm quyền quản lý. Người đứng đầu các bộ, ngành, cơ quan, đơn vị khi cử người tham gia hoạt động giám định cần bảo đảm nguyên tắc “việc thực hiện giám định tư pháp của công chức, viên chức, sĩ quan quân đội, sĩ quan công an nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng là hoạt động công vụ”[6]; tạo điều kiện về mặt thời gian, ưu tiên sử dụng cơ sở vật chất, máy móc chuyên dụng cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của cơ quan, đơn vị mình khi thực hiện giám định.
Thứ hai, bộ, ngành, địa phương cần có các giải pháp đặc thù để tôn vinh, khen thưởng cho những cá nhân, tổ chức có thành tích xuất sắc trong hoạt động giám định tư pháp. Đồng thời, căn cứ vào khả năng, điều kiện thực tế và thẩm quyền của mình, các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định các chế độ, chính sách nhằm thu hút các chuyên gia, tổ chức có năng lực tham gia hoạt động giám định tư pháp.
Thứ ba, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra tổ chức và hoạt động giám định tư pháp để kịp thời nắm bắt những khó khăn, vướng mắc, qua đó, củng cố, kiện toàn đội ngũ người giám định tư pháp, tổ chức giám định tư pháp và nâng cao hiệu quả của hoạt động giám định tư pháp, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của hoạt động tố tụng trong thời gian tới.
Kết luận
Hoạt động giám định tư pháp có vai trò quan trọng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, quy định pháp luật và thực tiễn hoạt động của đội ngũ giám định tư pháp, tổ chức giám định tư pháp còn tồn tại một số hạn chế. Để nâng cao chất lượng đội ngũ giám định tư pháp và tổ chức giám định tư pháp cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan, đơn vị thực hiện giám định, hướng đến mục tiêu củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ giám định tư pháp và tổ chức giám định tư pháp, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của hoạt động tố tụng./.
ThS. Lã Thị Vân Anh
Cục Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp
Ảnh: Internet
[1]. Bộ Tư pháp (2024), Báo cáo tổng kết thực hiện Đề án tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp, Hà Nội.
[2]. Bộ Tư pháp (2024), Báo cáo tổng kết thi hành Luật Giám định tư pháp, Hà Nội.
[3]. Bộ Tư pháp (2024), Báo cáo tổng kết thi hành Luật Giám định tư pháp, Hà Nội.
[4]. Hải Đăng, Pháp luật về giám định tư pháp của một số nước và mức độ phù hợp của pháp luật Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, https://danchuphapluat.vn/phap-luat-ve-giam-dinh-tu-phap-cua-mot-so-nuoc-va-muc-do-phu-hop-cua-phap-luat-viet-nam, truy cập ngày 14/5/2025.
[5]. Theo Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
[6]. Khoản 1a Điều 37 Luật Giám định tư pháp năm 2012.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tư pháp (2024), Báo cáo tổng kết thi hành Luật Giám định tư pháp, Hà Nội.
2. Bộ Tư pháp (2024), Báo cáo tổng kết thực hiện Đề án tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp, Hà Nội.
3. Hải Đăng, Pháp luật về giám định tư pháp của một số nước và mức độ phù hợp của pháp luật Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, https://danchuphapluat.vn/phap-luat-ve-giam-dinh-tu-phap-cua-mot-so-nuoc-va-muc-do-phu-hop-cua-phap-luat-viet-nam, truy cập ngày 14/5/2025.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số Kỳ 2 (435) tháng 8/2025)