
1. Công tác đăng ký biện pháp bảo đảm - Thành tựu và định hướng phát triển trong giai đoạn mới
1.1. Thành tựu
Thứ nhất, trong xây dựng và hoàn thiện thể chế. Với tư cách là đơn vị tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và đăng ký biện pháp bảo đảm, Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm (nay là Cục Đăng ký giao dịch bảo đảm và Bồi thường nhà nước) đã tham mưu, trình cấp có thẩm quyền ban hành 40 văn bản pháp luật gồm 07 nghị định của Chính phủ, 02 chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, 15 thông tư liên tịch, 16 thông tư của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, qua đó, góp phần bảo đảm đầy đủ cơ chế pháp lý về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và đăng ký biện pháp bảo đảm trong bối cảnh mới về phát triển kinh tế có độ mở cao, của chuyển đổi số, công nghệ số và kinh tế số. Đồng thời, Cục Đăng ký giao dịch bảo đảm và Bồi thường nhà nước đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan cung cấp ý kiến pháp lý để xây dựng nhiều văn bản quy phạm pháp luật có nội dung liên quan đến lĩnh vực bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và đăng ký biện pháp bảo đảm.
Đến nay, khung khổ thể chế về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và đăng ký biện pháp bảo đảm đã góp phần tạo cơ sở pháp lý đầy đủ hơn cho các tổ chức, cá nhân trong xác lập, thực hiện biện pháp bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm, góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa về hồ sơ, thủ tục đăng ký biện pháp bảo đảm đối với tất cả các loại tài sản (gồm quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tàu bay, tàu biển và các loại tài sản là động sản khác); từ đó, tạo điều kiện ngày càng thuận lợi hơn cho người dân, doanh nghiệp trong tiếp cận các nguồn vốn, khai thác tối đa giá trị kinh tế của tài sản, giảm thiểu rủi ro pháp lý, giảm chi phí và đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập của đất nước.
Thứ hai, trong tổ chức, thi hành pháp luật. Cục Đăng ký giao dịch bảo đảm và Bồi thường nhà nước trực tiếp chỉ đạo, quản lý về tổ chức và hoạt động đối với các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản thuộc Cục. Hiện, các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản hoạt động theo cơ chế tự chủ về chi thường xuyên và chi đầu tư. Các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản đã được bố trí đầy đủ hơn về cơ sở vật chất như trụ sở làm việc, trang thiết bị máy móc và con người. Hệ thống đăng ký trực tuyến về biện pháp bảo đảm bằng động sản không ngừng được đầu tư, nâng cấp, hiện đã đạt mức độ toàn trình, góp phần tạo nền tảng hạ tầng kỹ thuật quan trọng giúp các Trung tâm Đăng ký giao dịch bảo đảm tổ chức thực hiện công tác đăng ký biện pháp bảo đảm bằng động sản, cây hằng năm, công trình tạm theo thẩm quyền được thuận lợi, hiệu quả, nhanh chóng và thông suốt.
Công tác kiểm tra và theo dõi thi hành pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm luôn được quan tâm, chú trọng. Theo đó, hằng năm, Cục Đăng ký giao dịch bảo đảm và Bồi thường nhà nước đều tiến hành chủ trì hoặc phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan thực hiện kiểm tra tại các cơ quan đăng ký và tại các địa phương với hình thức các đoàn kiểm tra liên ngành hoặc độc lập. Bên cạnh đó, các phương thức theo dõi thi hành pháp luật không ngừng đổi mới và đa dạng hóa như thông qua các hoạt động kiểm tra, thu thập thông tin báo chí, tổ chức khảo sát, tọa đàm, tập huấn… Thông qua hoạt động kiểm tra và theo dõi thi hành pháp luật, cơ quan quản lý nhà nước đã hướng dẫn, tháo gỡ những khó khăn, giải đáp vướng mắc và kịp thời phát hiện, chấn chỉnh các sai sót trong công tác đăng ký biện pháp bảo đảm. Đồng thời, kết quả kiểm tra, theo dõi thi hành pháp luật còn là cơ sở thực tiễn quan trọng để Cục Đăng ký giao dịch bảo đảm và Bồi thường nhà nước phối hợp với cơ quan hữu quan đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và đăng ký biện pháp bảo đảm.
![]() |
Ảnh do Cục Đăng ký giao dịch bảo đảm và Bồi thường Nhà nước cung cấp. |
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật luôn được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và đăng ký biện pháp bảo đảm. Từ tháng 9/2006 đến nay, Cục Đăng ký giao dịch bảo đảm và Bồi thường nhà nước đã đưa vào vận hành Trang thông tin điện tử của Cục nhằm phục vụ công tác tuyên truyền về đăng ký biện pháp bảo đảm, trong đó, đẩy mạnh tuyên truyền về lợi ích của phương thức đăng ký trực tuyến cho các tổ chức, cá nhân. Đồng thời, Cục Đăng ký giao dịch bảo đảm và Bồi thường nhà nước đã chủ động phối hợp với đơn vị chức năng thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam... triển khai các hoạt động tập huấn, tuyên truyền theo hướng ngày càng mở rộng hơn về đối tượng (không chỉ đối với tổ chức tín dụng, mà còn đối với các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân), đa dạng về hình thức, góp phần quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của người dân về nội dung, ý nghĩa và vai trò của các quy định pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm.
Thứ ba, trong chuyển đổi số, cung cấp dịch vụ công, góp phần xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số, thực hiện chủ trương của Đảng, chiến lược, mục tiêu của Chính phủ, của Bộ, ngành Tư pháp trong đẩy mạnh thực hiện chiến lược phát triển Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số, phát triển kinh tế số và xã hội số, thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, nhận thức rõ tầm quan trọng của ứng dụng công nghệ thông tin trong mọi hoạt động của nền hành chính nhà nước giúp tinh gọn bộ máy, nâng cao năng lực, hiệu quả điều hành, giảm thiểu chi phí và tăng cường tính minh bạch của nền hành chính, từ năm 2010 đến nay, Cục Đăng ký giao dịch bảo đảm và Bồi thường nhà nước đã phối hợp với các đơn vị liên quan triển khai xây dựng Hệ thống đăng ký trực tuyến về biện pháp bảo đảm bằng động sản.
Từ ngày 19/3/2012, Cục Đăng ký giao dịch bảo đảm và Bồi thường nhà nước chính thức vận hành Hệ thống đăng ký trực tuyến về biện pháp bảo đảm bằng động sản đạt mức độ 3 về dịch vụ công trực tuyến. Từ ngày 10/7/2017, Hệ thống đăng ký trực tuyến về biện pháp bảo đảm bằng động sản đạt mức độ 4 về dịch vụ công trực tuyến. Từ ngày 04/10/2021 đến nay, Hệ thống đăng ký trực tuyến về biện pháp bảo đảm bằng động sản đạt yêu cầu về dịch vụ công trực tuyến toàn trình, từ tiếp nhận, giải quyết đến ký số và trả kết quả. Đây là hệ thống dịch vụ công đầu tiên trong Bộ Tư pháp đạt mức độ toàn trình về dịch vụ công trực tuyến tính đến thời điểm triển khai vận hành, được các tổ chức trong nước và quốc tế đánh giá là một trong những hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm hiện đại ở khu vực Đông Nam Á.
Tính đến ngày 14/5/2025, Hệ thống đăng ký trực tuyến về biện pháp bảo đảm bằng động sản đang trực tiếp phục vụ hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin cho hơn 12.201 tổ chức tín dụng và các tổ chức, cá nhân khác. Trung bình mỗi ngày có hơn 3.000 yêu cầu đăng ký, cung cấp thông tin, hơn 1.200 văn bản thông báo thế chấp phương tiện giao thông được gửi tới cơ quan đăng ký quản lý phương tiện và hơn 10.000 lượt tra cứu, tìm kiếm thông tin được thực hiện trên Hệ thống đăng ký trực tuyến về biện pháp bảo đảm bằng động sản... Điều này cho thấy sự ủng hộ, ghi nhận và mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp đối với Hệ thống đăng ký trực tuyến về biện pháp bảo đảm bằng động sản.
Với những số liệu ấn tượng trên, năm 2024, Cục Đăng ký giao dịch bảo đảm và Bồi thường nhà nước vinh dự đại diện cho Bộ, ngành Tư pháp được vinh danh là một trong 11 cơ quan nhà nước chuyển đổi số xuất sắc với sản phẩm “Hệ thống đăng ký trực tuyến về biện pháp bảo đảm bằng động sản” tại Lễ trao Giải thưởng Chuyển đổi số Việt Nam - Vietnam Digital Awards 2024 (VDA)[1].
1.2. Định hướng phát triển
Một là, tiếp tục đẩy mạnh rà soát, nghiên cứu hoàn thiện thể chế, pháp luật trong lĩnh vực bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, đăng ký biện pháp bảo đảm, bám sát theo nội dung định hướng, quan điểm chỉ đạo và các nhiệm vụ, giải pháp về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; về “thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hệ thống… đăng ký biện pháp bảo đảm để người dân và doanh nghiệp dễ tiếp cận pháp luật, quản trị rủi ro pháp lý”; về phát triển kinh tế tư nhân góp phần tháo gỡ “điểm nghẽn”, khơi thông mọi nguồn lực[2]…
Hai là, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, đăng ký biện pháp bảo đảm, chú trọng thực chất, có trọng tâm, trọng điểm, tránh hình thức. Đồng thời, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xử lý thông tin về tình hình thi hành pháp luật, từ đó, kịp thời đề xuất, kiến nghị các giải pháp khắc phục các tồn tại, hạn chế đã được phát hiện trong quá trình theo dõi tình hình thi hành pháp luật nhằm bảo đảm việc thực thi pháp luật hiệu quả; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền ban hành mới, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật còn chưa bảo đảm tính khả thi, tính thống nhất trong hệ thống pháp luật.
Ba là, thay đổi tư duy, cách thức quản lý trong cung ứng dịch vụ công trực tuyến về lĩnh vực đăng ký biện pháp bảo đảm là lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm. Xác định công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng để thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính và vận hành hoạt động của đơn vị. Bảo đảm 05 rõ: “rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ kết quả, rõ trách nhiệm” nhằm đánh giá, đo lường, kiểm tra, giám sát trong cung cấp dịch vụ công trực tuyến đối với lĩnh vực đăng ký biện pháp bảo đảm, để hoạt động cung ứng dịch vụ công trực tuyến đối với lĩnh vực đăng ký biện pháp bảo đảm trở thành nền tảng quan trọng trong xây dựng Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ kiến tạo, phục vụ, vì lợi ích của người dân và doanh nghiệp.
Bốn là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số trong tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, đăng ký biện pháp bảo đảm nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật cho các cá nhân, tổ chức có liên quan; đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền thông qua các buổi tập huấn, xây dựng các video hướng dẫn, trên các phương tiện truyền thông đại chúng...
Năm là, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tham gia cung cấp dịch vụ công trực tuyến trong lĩnh vực đăng ký biện pháp bảo đảm về chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin. Tập trung phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số. Đồng thời, cần xác định việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực trong chuyển đổi số nói chung, cung cấp dịch vụ công về đăng ký biện pháp bảo đảm nói riêng là quan trọng nhất, gồm công tác quản trị, lãnh đạo, thiết chế thực hiện và sự kết hợp chặt chẽ giữa con người với hệ thống công nghệ.
Sáu là, tăng cường ứng dụng công nghệ số, chủ động nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật và bố trí nguồn lực bảo đảm điều kiện triển khai, ứng dụng các công nghệ và dịch vụ mới (trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data)…) phục vụ nâng cấp, mở rộng và hoàn thiện Hệ thống đăng ký trực tuyến về biện pháp bảo đảm bằng động sản theo hướng chuyển đổi số; tiếp tục duy trì cung cấp dịch vụ công chất lượng cao trong lĩnh vực đăng ký biện pháp bảo đảm đáp ứng nhu cầu của người dân, doanh nghiệp; thực hiện kết nối, đồng bộ dữ liệu với Trung tâm dữ liệu quốc gia, các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu khác của các bộ, ngành theo quy định của pháp luật, góp phần quan trọng vào kết quả thực hiện nhiệm vụ xây dựng nền tảng dữ liệu số dùng chung của Chính phủ, phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số của Bộ, ngành Tư pháp.
2. Công tác bồi thường nhà nước - Thành tựu và định hướng phát triển trong giai đoạn mới
2.1. Những thành tựu trong giai đoạn 2015 - 2025
Một là, xây dựng và hoàn thiện thể chế về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Cục Bồi thường nhà nước (nay là Cục Đăng ký giao dịch bảo đảm và Bồi thường nhà nước) đã tham mưu Lãnh đạo Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan tham mưu Chính phủ trình Quốc hội khóa XIV thông qua Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước vào ngày 20/6/2017, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2018. Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 có nhiều điểm mới quan trọng, góp phần bảo đảm tính khả thi của cơ chế trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại cũng như bảo đảm lợi ích của Nhà nước. Để hướng dẫn thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, Cục đã tham mưu Lãnh đạo Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng, trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành 08 văn bản quy phạm pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, trong đó có 01 nghị định[3]; 06 thông tư, thông tư liên tịch[4] và 02 quyết định[5].
Hai là, nâng cao nhận thức pháp luật của cán bộ, công chức, người dân và doanh nghiệp. Nhằm nâng cao nhận thức pháp luật của người dân cũng như của cán bộ, công chức, Cục đã biên soạn và xuất bản nhiều ấn phẩm, tài liệu[6] phục vụ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác bồi thường của Nhà nước được Cục thực hiện thường xuyên, chất lượng, hiệu quả. Từ năm 2015 đến tháng 6/2025, Cục đã tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo, tọa đàm, tập huấn công tác bồi thường nhà nước trên toàn quốc[7]. Ngoài ra, Cục đã phối hợp cử nhiều lượt báo cáo viên hỗ trợ tại các Hội nghị tập huấn nghiệp vụ công tác bồi thường nhà nước do Bộ, ngành, địa phương tổ chức.
Ba là, xác lập lĩnh vực quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước là một lĩnh vực mới và từng bước đưa công tác này vào nền nếp. Trong giai đoạn 2015 - 2025, hằng năm, Cục tham mưu Bộ Tư pháp ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ trọng tâm công tác bồi thường nhà nước gửi Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; đồng thời, gửi các bộ, ngành, địa phương để chỉ đạo các cơ quan thuộc phạm vi quản lý thực hiện nhiệm vụ trọng tâm trong công tác bồi thường nhà nước. Theo đó, các hoạt động theo dõi, kiểm tra, cung cấp thông tin, hướng dẫn nghiệp vụ, hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường[8]... được thực hiện kịp thời, có hiệu quả tại các địa phương phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Bốn là, tác động tích cực tới việc phòng ngừa hành vi vi phạm pháp luật của người thi hành công vụ trong thực thi chức trách nhiệm vụ, qua đó, góp phần nâng cao chất lượng thi hành công vụ. Sau khi Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 được ban hành, tỉ lệ các vụ việc phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án có xu hướng giảm và có tác động sâu sắc tới ý thức trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức.
Năm là, từng bước nâng cao hiệu quả công tác giải quyết bồi thường và thực hiện trách nhiệm hoàn trả. Theo báo cáo của các cơ quan có trách nhiệm bồi thường trên cả nước, trong giai đoạn 2015 - 2025, các cơ quan đã thụ lý, giải quyết xong tổng số 463/495 vụ việc, với tổng số tiền Nhà nước phải bồi thường (được xác định trong các quyết định giải quyết bồi thường, bản án, quyết định của Tòa án giải quyết các vụ án dân sự về bồi thường nhà nước có hiệu lực pháp luật) là 208 tỷ 466 triệu 335 nghìn đồng. Việc xem xét trách nhiệm hoàn trả đã thực hiện đối với 62 vụ việc, với tổng số tiền là 2 tỷ 893 triệu 225 nghìn đồng[9].
Có thể khẳng định, pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được triển khai thực hiện trong 10 năm qua (từ năm 2015 đến năm 2025) đã phát huy hiệu quả trên thực tế, khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong việc thiết lập cơ chế đặc thù để cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp thực hiện quyền yêu cầu Nhà nước bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật của người thi hành công vụ gây ra. Thông qua thực hiện công tác bồi thường nhà nước, ý thức, trách nhiệm của công chức trong thi hành công vụ tiếp tục chuyển biến. Công chức ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về ý nghĩa, vai trò của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, qua đó, nâng cao trách nhiệm của mình trước Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
2.2. Định hướng phát triển
Thứ nhất, tăng cường sự quan tâm, lãnh đạo của Đảng và phối hợp của các cấp, các ngành trong công tác bồi thường nhà nước. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác bồi thường nhà nước trong thời gian tới, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và sự phối hợp của các cấp, các ngành có ý nghĩa vô cùng quan trọng, cụ thể: (i) tiếp tục thể chế hóa đầy đủ quan điểm, chủ trương của Đảng trong việc hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; (ii) tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa Bộ Tư pháp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, các bộ, ngành, địa phương trong việc thực hiện công tác bồi thường nhà nước; hướng dẫn nghiệp vụ giải quyết bồi thường; thống nhất các biện pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Hoàn thiện thể chế về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cần bảo đảm phù hợp với việc sắp xếp tổ chức tinh gọn bộ máy, chính quyền địa phương hai cấp, chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ,... phù hợp với các chủ trương, chính sách tại Nghị quyết số 66-NQ/TW, Quy định số 231-QĐ/TW ngày 17/01/2025 của Ban chấp hành Trung ương về bảo vệ người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; đồng bộ, thống nhất với các quy định của pháp luật liên quan; đồng thời, khắc phục được những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực tiễn thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 nhằm bảo đảm tốt hơn quyền, lợi ích của người bị thiệt hại cũng như lợi ích của Nhà nước.
Thứ ba, cần tăng cường phối hợp chặt chẽ, quyết liệt giữa các cơ quan đơn vị trong công tác bồi thường nhà nước bảo đảm: bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người bị thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức gây ra; bảo vệ uy tín của các cơ quan thực thi công vụ; góp phần bảo vệ Đảng và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ tư, nghiên cứu triển khai đưa nội dung về công tác bồi thường nhà nước và phòng ngừa vi phạm pháp luật vào hoạt động đào tạo, bồi dưỡng; phối hợp nâng cao chất lượng thực thi công vụ của cán bộ, công chức. Nghị quyết số 66-NQ/TW đã chỉ ra một trong những nhiệm vụ quan trọng, đó là: “đề cao công tác phòng ngừa, cảnh báo vi phạm pháp luật đi đôi với việc tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra…”. Do đó, thời gian tới, cần nghiên cứu, đưa công tác bồi thường nhà nước vào hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng thi hành công vụ của cán bộ, công chức. Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng thực thi công vụ, cần tiếp tục tăng cường thực hiện công tác phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước ở trung ương và địa phương với các bộ, ngành, địa phương; tăng cường phối hợp với Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước trong hoạt động tố tụng, đặc biệt, chú trọng phối hợp giải quyết các vụ việc tồn đọng, kéo dài.
Thứ năm, xây dựng cơ sở dữ liệu, tăng cường chuyển đổi số trong lĩnh vực bồi thường nhà nước. Theo quy định tại điểm k khoản 2 Điều 73 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, ngoài các nhiệm vụ chung về quản lý nhà nước, Bộ Tư pháp còn có nhiệm vụ “xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu về công tác bồi thường nhà nước”. Do đó, để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin, cần quan tâm đầu tư, nghiên cứu thực hiện nhiệm vụ này nhằm đáp ứng các yêu cầu, như: (i) cơ sở dữ liệu về bồi thường nhà nước phải cập nhật thông tin đầy đủ (cả đầu vào và đầu ra của các thủ tục về bồi thường nhà nước như: thủ tục giải quyết, cấp kinh phí bồi thường; thủ tục hoàn trả… đối với từng vụ việc trên toàn quốc); (ii) cập nhật được các giai đoạn, thời điểm xử lý, tình hình giải quyết vụ việc để phục vụ cho công tác báo cáo, thống kê theo yêu cầu của các cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền; (iii) hiển thị, cập nhật những khó khăn, vướng mắc đối với từng vụ việc yêu cầu bồi thường trên hệ thống để nhanh chóng xử lý kịp thời các vướng mắc, khó khăn trong quá trình giải quyết…/.
Cục Đăng ký giao dịch bảo đảm và Bồi thường nhà nước, Bộ Tư pháp
[1]. Đây là giải thưởng tôn vinh những thành tựu chuyển đổi số xuất sắc của cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp và cá nhân, thúc đẩy công cuộc chuyển đổi số quốc gia do Hội Truyền thông số Việt Nam (VDCA) chủ trì và sự bảo trợ của Bộ Thông tin và Truyền thông, Tạp chí điện tử VietTimes.
[2]. Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới (Nghị quyết số 66-NQ/TW), Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
[3]. Nghị định số 68/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
[4]. (i) Thông tư số 04/2018/TT-BTP ngày 17/5/2018 của Bộ Tư pháp ban hành một số biểu mẫu trong công tác bồi thường nhà nước; (ii) Thông tư số 11/2018/TT-BTP ngày 30/7/2018 của Bộ Tư pháp bãi bỏ một số văn bản quy phạm pháp luật do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành, liên tịch ban hành trong lĩnh vực bồi thường nhà nước; (iii) Thông tư liên tịch số 15/2018/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 27/11/2018 bãi bỏ Thông tư liên tịch số 04/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 23/01/2014 giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ; (iv) Thông tư liên tịch số 17/2018/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT ngày 20/12/2018 bãi bỏ Thông tư liên tịch số 22/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT ngày 21/11/2014 giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước trong hoạt động tố tụng; (v) Thông tư số 08/2019/TT-BTP ngày 10/12/2019 của Bộ Tư pháp quy định biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước; (vi) Thông tư số 09/2019/TT-BTP ngày 10/12/2019 của Bộ Tư pháp quy định biện pháp hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nước.
[5]. Quyết định số 3062/QĐ-BTP ngày 11/12/2019 của Bộ Tư pháp ban hành Bộ Tiêu chí đánh giá kết quả thực hiên công tác bồi thường nhà nước; Quyết định số 44/QĐ-BTP ngày 16/01/2023 của Bộ Tư pháp ban hành quy chế phối hợp thực hiện công tác bồi thường nhà nước trong Bộ Tư pháp.
[6]. Xây dựng và phát hành gửi Bộ, ngành, địa phương: 17 đầu sách Nghiệp vụ công tác bồi thường nhà nước với 20.600 cuốn; 6.462 tờ gấp, tờ rơi; 07 số chuyên đề (tổng hợp số liệu từ Báo cáo của Bộ Tư pháp báo cáo Chính phủ công tác bồi thường nhà nước từ năm 2015 đến năm 2024).
[7]. Tổ chức: 08 tọa đàm; 65 hội nghị, hội thảo; 68 tập huấn (tổng hợp số liệu từ Báo cáo của Cục Bồi thường nhà nước báo cáo Bộ Tư pháp kết quả công tác bồi thường nhà nước từ năm 2015 đến năm 2024).
[8]. Theo dõi: 63 vụ việc; kiểm tra liên ngành: 30 cuộc; kiểm tra định kỳ: 75 cuộc; kiểm tra đột xuất: 12 cuộc; cung cấp thông tin, hỗ trợ hướng dẫn người bị thiệt hại: 345 văn bản; hướng dẫn nghiệp vụ: 341 lượt vụ việc; giải đáp vướng mắc: 134 lượt; hỗ trợ tại chỗ: 108 vụ việc (tổng hợp số liệu từ Báo cáo của Bộ Tư pháp báo cáo Chính phủ công tác bồi thường nhà nước từ năm 2015 đến năm 2024).
[9]. Tổng hợp số liệu từ Báo cáo của Bộ Tư pháp báo cáo Chính phủ công tác bồi thường nhà nước từ năm 2015 đến năm 2024.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật ấn phẩm đặc biệt “Ngành Tư pháp - Tự hào truyền thống, vững bước tương lai”)