1. Những thành tựu nổi bật trong đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp của Học viện Tư pháp
Là cơ sở đào tạo nghề luật đầu tiên trực thuộc Bộ Tư pháp và cũng là trung tâm lớn nhất đào tạo chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp của đất nước[1], trải qua 27 năm, hoạt động đào tạo các chức danh tư pháp và bổ trợ tư pháp của Học viện Tư pháp đã đạt được những thành tựu quan trọng, đóng góp nhiều vào sự phát triển nguồn nhân lực tư pháp của đất nước, Bộ, ngành Tư pháp và xã hội.
Thứ nhất, đặt nền móng và mở ra mô hình đào tạo mới - đào tạo kỹ năng nghề trước khi bổ nhiệm để tạo nguồn chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp.
Từ kết quả hoạt động đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp đã hình thành tiêu chuẩn, điều kiện luật định và ngày càng được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hơn về yêu cầu bản lĩnh nghề cao, đạo đức trong sáng, vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ khi bổ nhiệm chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, để bổ nhiệm chức danh tư pháp và bổ trợ tư pháp, ngoài tiêu chuẩn tốt nghiệp cử nhân luật còn phải có chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ, đào tạo nghề theo từng chức danh, qua đó, hình thành tiêu chuẩn chung, tiêu chuẩn đặc thù cho từng chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp tạo nguồn bổ nhiệm có chất lượng và làm cơ sở cho việc đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ... cán bộ. Ở các nước phát triển, đào tạo kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp đối với các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp trước khi bổ nhiệm đã có lịch sử phát triển lâu đời, nhưng ở Việt Nam mô hình này lần đầu tiên được triển khai từ năm 1998 tại Trường Đào tạo các chức danh tư pháp (tiền thân của Học viện Tư pháp) với xuất phát điểm chỉ đào tạo chức danh thẩm phán. Từ một chương trình đào tạo nghiệp vụ xét xử, đến nay, Học viện Tư pháp đã và đang triển khai 11 chương trình đào tạo cho 08 chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp[2].
Thứ hai, tạo nguồn nhân lực tư pháp, bổ trợ tư pháp chất lượng cho các ngành Tòa án, kiểm sát và tư pháp.
Thành tựu đạt được trong công tác đào tạo đã giải quyết được bài toán thiếu hụt về nguồn nhân lực tư pháp và sớm hình thành đội ngũ cán bộ, chức danh tư pháp kế cận có phẩm chất, năng lực và kỹ năng nghiệp vụ. Tính đến nay, Học viện Tư pháp đã và đang đào tạo 92.930 học viên, trong đó có 77.848 học viên đã tốt nghiệp[3]. Phần nhiều học viên tốt nghiệp từ các chương trình đào tạo chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp tại Học viện Tư pháp đã được bổ nhiệm chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp. Nhiều người hiện đảm trách những chức vụ quan trọng trong hệ thống cơ quan Tòa án, kiểm sát, thi hành án các cấp, tổ chức hành nghề luật sư, công chứng, đấu giá và thừa phát lại có uy tín cao trong nghề.
Thứ ba, góp phần rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ về kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp cho đội ngũ các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp.
Kết quả đào tạo đã tạo sự thống nhất chung về nghiệp vụ, áp dụng, thực hiện pháp luật có hiệu quả trên toàn quốc, từ đó, nâng cao hình ảnh, uy tín của Bộ, ngành Tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa của đất nước, thực hiện công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Hoạt động đào tạo ngày càng bài bản, chuyên nghiệp, thường xuyên đổi mới để bảo đảm tính thời sự, hiện đại về nội dung, phương pháp, hình thức đào tạo theo chức danh; gắn lý thuyết với thực hành, kỹ năng xử lý tình huống, giải quyết các công việc từ thực tiễn đối với từng chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp và theo vị trí việc làm. Chương trình chú trọng đào tạo toàn diện từ rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức đến nâng cao kiến thức, kỹ năng và thực tiễn hành nghề.
Thứ tư, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và ngành Tư pháp về phát triển các nghề bổ trợ tư pháp ở các địa phương theo hướng xã hội hóa và theo nhu cầu xã hội.
Phạm vi hoạt động đào tạo được mở rộng không chỉ tập trung tại thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, mà còn phân bổ hợp lý ở các địa phương, vùng miền trong toàn quốc, từ đó, giải quyết tốt tình trạng khó khăn trong thiếu hụt nguồn nhân lực tư pháp, phát triển nghề tư pháp, bổ trợ tư pháp ở nhiều địa phương kể cả các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn[4], đồng thời, giảm thiểu chi phí đào tạo cho người học. Chương trình đào tạo được phát triển mạnh mẽ, đa dạng và không ngừng đổi mới về hình thức tổ chức dạy - học và nội dung, tiếp cận theo hướng đạt chuẩn chất lượng đào tạo, tiến tới công nhận văn bằng, chuyển đổi tín chỉ và kỹ năng nghề. Về tổng thể, đến nay, chương trình đào tạo nghề đã có những thay đổi và phát triển theo hướng hoàn thiện, hiện đại, với chuẩn đầu ra đáp ứng cơ bản năng lực cần có đặc thù với từng chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp; phân định khối kiến thức cần biết, phải biết, nên biết; bảo đảm hài hòa giữa khối kiến thức, kỹ năng bắt buộc và khối kiến thức, kỹ năng tự chọn - định hướng nghề chuyên sâu; có sự liên thông giữa các khối kiến thức, thuận tiện cho việc tổ chức dạy - học, có tính đến đặc thù ở từng địa phương mở lớp, phát huy khả năng của người học.
Những thành tựu nêu trên cho thấy, Học viện Tư pháp là cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chức danh tư pháp đầu tiên của Việt Nam có bề dày kinh nghiệm, nền tảng, uy tín, là địa chỉ đáng tin cậy trong đào tạo nghề luật, xứng đáng trở thành trung tâm lớn về đào tạo các chức danh tư pháp theo định hướng của Đảng và Nhà nước[5], không chỉ lớn ở quy mô và phạm vi đào tạo mà còn lớn về chất lượng đào tạo nguồn nhân lực tư pháp quốc gia, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
![]() |
| Ảnh do Học viện Tư pháp cung cấp. |
2. Định hướng phát triển đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Bước vào giai đoạn mới xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển, thịnh vượng, hùng cường của dân tộc[6], hoạt động đào tạo chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp tại Học viện Tư pháp cần phải đổi mới, thay đổi để: (i) đáp ứng với đòi hỏi, yêu cầu giai đoạn mới, kỷ nguyên mới đặt ra; (ii) bảo đảm thực hiện được những nhiệm vụ cụ thể Đảng và Nhà nước giao để tiếp tục xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp[7]; (iii) đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số trong hoạt động đào tạo.
Những yêu cầu đòi hỏi về xây dựng nguồn nhân lực tư pháp trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đã được xác định trong Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới và Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, cơ bản gồm:
Một là, bảo đảm chuẩn đào tạo chức danh tư pháp và bổ trợ tư pháp. Xây dựng chuẩn đào tạo đối với các chức danh tư pháp và bổ trợ tư pháp là một trong những khâu trọng yếu, giữ sứ mệnh là cơ sở định hướng cho việc thiết kế, đổi mới, phát triển các chương trình đào tạo phù hợp với mục tiêu, nâng cao chất lượng đào tạo, cam kết trách nhiệm của cơ sở đào tạo nghề luật cho người học, đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Do vậy, cần nghiên cứu, thực hiện chuẩn đào tạo các chương trình đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Tư pháp nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, hoạt động chuyên nghiệp, tuân thủ pháp luật, có bản lĩnh chính trị vững vàng và đạo đức nghề nghiệp trong sáng, giỏi về kỹ năng hành nghề và ngoại ngữ, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.
Hai là, xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình đào tạo mới đáp ứng yêu cầu đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật hiện nay; đặc biệt, chú trọng xây dựng và sớm triển khai thực hiện chương trình đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu về xây dựng chính sách, pháp luật.
Cần nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng mới, chuyên sâu về xây dựng pháp luật, pháp chế doanh nghiệp, thương mại quốc tế, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại; các chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu theo lĩnh vực pháp luật và theo kỹ năng nghiệp vụ đặc thù của các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp.
Ba là, ưu tiên phát triển hoạt động đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, kinh nghiệm thực tiễn về pháp luật quốc tế, hợp tác quốc tế và giải quyết tranh chấp quốc tế; về pháp luật hiện đại, khoa học công nghệ và quản trị doanh nghiệp để triển khai thực hiện các nghị quyết của Bộ Chính trị[8].
Trí tuệ nhân tạo (AI) tác động toàn diện tới ba trụ cột của hoạt động đào tạo (chương trình đào tạo, quá trình tổ chức giảng dạy - học tập và kiểm tra đánh giá) nên chuyển đổi số trong hoạt động đào tạo chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp đã trở thành nhu cầu tất yếu để nâng cao chất lượng đào tạo. Đây chính là “kim chỉ nam” cho hoạt động đào tạo chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp của Học viện Tư pháp trong thời gian tới với những định hướng căn bản: (i) tăng cường về chất lượng, hiệu quả hoạt động đào tạo; (ii) xây dựng môi trường đào tạo thân thiện với người học, với thị trường lao động, dịch vụ, hướng đến xã hội, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; (iii) tăng cường năng lực cạnh tranh của đội ngũ các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp tại thị trường dịch vụ pháp lý trong nước, khu vực và quốc tế, tích cực đóng góp cho công cuộc cải cách tư pháp và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Để thực hiện được các định hướng trên, Học viện Tư pháp cần triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp và nhiệm vụ cụ thể trong đào tạo chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp như sau: (i) đổi mới mô hình đào tạo nghề; đồng thời, định hướng đổi mới toàn diện nội dung trên cơ sở phát huy thế mạnh trong suốt hành trình kiến tạo, phát triển hoạt động đào tạo nghề. Hoạt động trọng tâm của Học viện Tư pháp là đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng, phục vụ chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới[9] và hội nhập quốc tế; (ii) đổi mới các chương trình đào tạo chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng đa dạng hóa chương trình và hình thức tổ chức đáp ứng chuẩn đào tạo nghề.
Về trọng tâm, đổi mới chương trình đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp bảo đảm tính liên thông và hiện đại của chương trình đào tạo theo hướng: thứ nhất, xác định rõ yêu cầu của đổi mới là để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực tư pháp chất lượng cao; thứ hai, nhận diện đầy đủ về những vấn đề cần tiếp tục được đặt ra cho hoạt động đào tạo nghề luật trong thời gian tới trên cơ sở tổng kết ưu điểm, đánh giá hạn chế, xác định bối cảnh, chiến lược và tầm nhìn để phát triển đào tạo nghề các chức danh tư pháp ở Việt Nam; cần xây dựng chuẩn chung cho tất cả chương trình đào tạo nghề luật hiện hành; thứ ba, đổi mới nội dung chương trình đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp, cụthể: đổi mới quy trình xây dựng, phát triển chương trình đào tạo; thống nhất cách thiết kế, cấu trúc các chương trình đào tạo theo hướng bám sát các nhóm kỹ năng nghề nghiệp đặc thù của từng chức danh trong thực tiễn hành nghề và tăng cường sự tự giác, năng lực tự học, tự nghiên cứu, chủ động trải nghiệm thực tiễn nghề nghiệp của người học; rà soát, chuẩn hóa đầu ra của chương trình đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp...; thứ tư, định hướng chất lượng đào tạo được đề cập ở khía cạnh quy hoạch và tuyển dụng các giảng viên, xây dựng triển khai các chương trình, các hình thức đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; đầu tư toàn diện cơ sở vật chất cũng như các điều kiện đặc thù khác bảo đảm thực thi hiệu quả hoạt động đào tạo; thứ năm, phát triển đội ngũ giảng viên bảo đảm về số lượng và chất lượng, đặc biệt, chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho giảng viên về chuyên môn, trình độ sư phạm, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin. Đồng thời, có chính sách thu hút, lựa chọn các giảng viên thỉnh giảng là các chức danh tư pháp giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, tâm huyết với nghề tham gia xây dựng tài liệu học tập và giảng dạy. Ngoài ra, cần tập trung nguồn lực đầu tư nâng cao năng lực giảng dạy và nghiên cứu khoa học cho đội ngũ giảng viên của Học viện Tư pháp; thứ sáu, xây dựng phương thức tổ chức đào tạo mới thông qua thực hiện chuyển đổi số và ứng dụng AI vào hoạt động đào tạo, áp dụng và khai thác tối đa hiệu quả của chuyển đổi số nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo./.
PGS. TS. Nguyễn Minh Hằng
Phó Giám đốc Học viện Tư pháp, Bộ Tư pháp
TS. Trần Minh Tiến
Trưởng Phòng Đào tạo và công tác học viên, Học viện Tư pháp, Bộ Tư pháp
[1]. Trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp: (i) lớn về số lượng các loại chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp được đào tạo; (ii) lớn về chất lượng và thương hiệu đào tạo (trong đó, chất lượng đào tạo được coi là khâu then chốt để khẳng định Học việc Tư pháp là trung tâm lớn nhất trong toàn quốc đào tạo các chức danh tư pháp).
[2]. Gồm các chức danh: thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư, công chứng viên, chấp hành viên, đấu giá viên, thừa phát lại và thư ký Tòa án.
[3]. Cụ thể, tính đến ngày 05/6/2025, Học viện Tư pháp đã đào tạo được 340 học viên luật sư tập sự, trong đó có 333 học viên được tốt nghiệp; 56.868 học viên đào tạo nghề luật sư, trong đó có 47.007 học viên đã tốt nghiệp; 477 học viên đào tạo nghề luật sư theo chương trình chất lượng cao, trong đó có 272 học viên đã tốt nghiệp; 5.520 học viên đào tạo nghiệp vụ xét xử, trong đó có 5.511 học viên đã tốt nghiệp; 1.498 học viên đào tạo nghiệp vụ kiểm sát, trong đó có 1.478 học viên đã tốt nghiệp; 5.878 học viên đào tạo nghiệp vụ thi hành án, trong đó có 5.698 học viên đã tốt nghiệp; 76 học viên đào tạo chung nghiệp vụ thi hành án và thừa phát lại, trong đó có 70 học viên đã tốt nghiệp; 15.903 học viên đào tạo nghề công chứng, trong đó có 12.937 học viên đã tốt nghiệp; 97 học viên đào tạo nghề công chứng theo chương trình chất lượng cao, trong đó có 36 học viên đã tốt nghiệp; 148 học viên đào tạo lý lịch tư pháp, trong đó có 147 học viên đã tốt nghiệp; 1.906 học viên đào tạo đấu giá viên, trong đó có 1.632 học viên đã tốt nghiệp; 1.503 học viên đào tạo thừa phát lại, trong đó có 1.097 học viên đã tốt nghiệp; 540 học viên đào tạo luật sư phục vụ hội nhập quốc tế, trong đó có 412 học viên đã tốt nghiệp; 99 học viên đào tạo thư ký Tòa án; 1.913 học viên đào tạo chung nguồn thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư, trong đó có 955 học viên đã tốt nghiệp; đào tạo cho Lào được 04 học viên đào tạo nghiệp vụ xét xử, 50 học viên theo chương trình công chứng, 30 học viên theo chương trình đào tạo chung thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư và 80 học viên theo chương trình nghiệp vụ thi hành án.
[4]. Học viện Tư pháp đã và đang tổ chức đào tạo nghề bổ trợ tư pháp ở gần 30 tỉnh, thành phố trên cả nước.
[5]. Điểm a khoản 3 Điều 1 Quyết định số 1155/QĐ-TTg ngày 30/9/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Tiếp tục xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp.
[6]. Kỷ nguyên mới được hình dung trên ba phương diện chính: (i) tinh thần dân tộc và bản sắc văn hóa, với sự khẳng định giá trị và sự độc đáo của văn hóa Việt Nam trong bối cảnh của toàn cầu hóa, chuyển đổi sang kinh tế số, kinh tế xanh và kinh tế chia sẻ; (ii) sức mạnh tri thức và công nghệ nhằm phát huy trí tuệ người Việt thông qua giáo dục, sáng tạo công nghệ và chuyển đổi số để tạo động lực chính cho sự phát triển đất nước; (iii) hợp tác và kết nối toàn cầu để tận dụng tối ưu giá trị tích cực và hiệu quả từ thể chế, môi trường và các đối tác hợp tác quốc tế trong cả hai khu vực liên Chính phủ và phi Chính phủ.
[7]. Theo Quyết định số 1155/QĐ-TTg ngày 30/9/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án tiếp tục phê duyệt đề án xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp (Quyết định số 1155/QĐ-TTg), Quyết định số 803/QĐ-BTP ngày 07/5/2024 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp phê duyệt Đề án “Phát triển Học viện Tư pháp thành cơ sở có uy tín về đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về pháp luật quốc tế cho các chức danh tư pháp và cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng” (Quyết định số 803/QĐ-BTP).
[8]. Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới”; Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trịvề đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
[9]. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật ấn phẩm đặc biệt “Ngành Tư pháp - Tự hào truyền thống, vững bước tương lai”)