Thứ sáu 21/11/2025 10:47
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thực hiện công tác bồi thường nhà nước trong bối cảnh tổ chức chính quyền địa phương hai cấp

Từ ngày 01/7/2025, chính quyền địa phương ở Việt Nam được tổ chức theo mô hình 02 cấp: Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (cấp tỉnh) và xã, phường, đặc khu trực thuộc cấp tỉnh (cấp xã).

Để tạo hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho mô hình mới, là cơ sở để các địa phương thống nhất triển khai, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và hiệu lực quản lý nhà nước, trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ đã ban hành 02 nghị định: (i) Nghị định số 120/2025/NĐ-CP ngày 11/6/2025 của Chính phủ quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP); (ii) Nghị định số 121/2025/NĐ-CP ngày 11/6/2025 của Chính phủ quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP). Bộ trưởng Bộ Tư pháp cũng đã ban hành Thông tư số 08/2025/TT-BTP ngày 12/6/2025 quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp và phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp. Các văn bản này đã quy định rõ việc phân định thẩm quyền, phân cấp, phân quyền trong lĩnh vực của Bộ Tư pháp khi tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp, trong đó có công tác bồi thường nhà nước.

1. Phân định thẩm quyền thực hiện công tác bồi thường nhà nước khi tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp

Trong lĩnh vực bồi thường của Nhà nước, theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, Ủy ban nhân dân cấp huyện không có chức năng quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước; Ủy ban nhân dân cấp huyện là cơ quan giải quyết bồi thường theo quy định tại khoản 3 Điều 33 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 và Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) cấp huyện đã chi trả tiền bồi thường có trách nhiệm tổ chức việc xem xét trách nhiệm hoàn trả theo quy định tại Điều 66 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017. Từ ngày 01/7/2025, việc thực hiện công tác bồi thường đối với những vụ việc mà Ủy ban nhân dân cấp huyện đang giải quyết được thực hiện như sau:

1.1. Đối với việc giải quyết bồi thường

Từ ngày 01/7/2025, việc giải quyết bồi thường đối với những vụ việc mà UBND cấp huyện gây thiệt hại trước ngày 01/7/2025 được thực hiện như sau:

(i) UBND cấp tỉnh là cơ quan giải quyết bồi thường trong trường hợp hành vi gây thiệt hại của UBND cấp huyện thuộc nhóm nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp tỉnh kể từ ngày 01/7/2025 (khoản 1 Điều 19 Nghị định số 120/2025/NĐ-CP).

Ví dụ 1: Theo quy định tại khoản 2 Điều 188 Luật Đất đai 2024, UBND cấp huyện có thẩm quyền quyết định việc sử dụng đất có mặt nước là hồ, đầm thuộc địa bàn nhiều xã, phường, thị trấn. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 4 Nghị định số 151/2025/NĐ-CP ngày 12/6/2025 của Chính phủ quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp, phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực đất đai thì kể từ ngày 01/7/2025 “thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định việc sử dụng đất có mặt nước là hồ, đầm thuộc địa bàn nhiều xã, phường quy định tại khoản 2 Điều 188 Luật Đất đai chuyển giao cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện”. Như vậy, kể từ ngày 01/7/2025, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tiếp nhận thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện về quyết định việc sử dụng đất có mặt nước là hồ, đầm thuộc địa bàn nhiều xã, phường. Đối chiếu với các quy định nêu trên, trong trường hợp trước ngày 01/7/2025, UBND cấp huyện là cơ quan giải quyết bồi thường nhưng chưa giải quyết hoặc giải quyết chưa xong (liên quan đến thẩm quyền của UBND cấp huyện tại khoản 2 Điều 188 Luật Đất đai 2024) thì sau ngày 01/7/2025, UBND cấp tỉnh là cơ quan giải quyết bồi thường.

(ii) UBND cấp xã là cơ quan giải quyết bồi thường trong trường hợp hành vi gây thiệt hại của UBND cấp huyện thuộc nhóm nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã kể từ ngày 01/7/2025 (khoản 2 Điều 19 Nghị định số 120/2025/NĐ-CP).

Ví dụ 2: Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 38 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Chủ tịch UBND cấp huyện có quyền phạt tiền đến 50% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật này nhưng không quá 50.000.000 đồng. Tuy nhiên, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 5 Nghị định số 189/2025/NĐ-CP ngày 01/7/2025 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Xử lý vi phạm hành chính về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025), Chủ tịch UBND cấp xã có quyền phạt tiền đến 50% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Như vậy, căn cứ quy định tại Nghị định số 189/2025/NĐ-CP nêu trên, kể từ ngày 01/7/2025, Chủ tịch UBND cấp xã tiếp nhận thẩm quyền phạt tiền của Chủ tịch UBND cấp huyện trước đây đối với các lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Do đó, theo quy định tại Điều 19 Nghị định số 120/2025/NĐ-CP, trường hợp trước ngày 01/7/2025, UBND cấp huyện là cơ quan giải quyết bồi thường do Chủ tịch UBND cấp huyện phạt tiền trái pháp luật nhưng chưa giải quyết hoặc giải quyết chưa xong, thì sau ngày 01/7/2025, UBND cấp xã là cơ quan giải quyết bồi thường (mặc dù vậy, khi tham mưu xử lý đối với từng lĩnh vực cụ thể cần căn cứ vào quy định của văn bản pháp luật chuyên ngành về mức phạt tiền trong từng lĩnh vực).

(iii) Cơ quan chuyên môn hoặc các cơ quan, đơn vị trực thuộc UBND cấp tỉnh có tư cách pháp nhân, có tài khoản riêng là cơ quan giải quyết bồi thường trong trường hợp hành vi gây thiệt hại của UBND cấp huyện thuộc nhóm nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, đơn vị đó kể từ ngày 01/7/2025 (khoản 3 Điều 19 Nghị định số 120/2025/NĐ-CP).

1.2. Đối với việc xem xét trách nhiệm hoàn trả

Thứ nhất, thẩm quyền xem xét trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ gây thiệt hại.

Từ ngày 01/7/2025, Chủ tịch UBND cấp tỉnh, cấp xã và thủ trưởng cơ quan, đơn vị quy định tại Điều 19 Nghị định số 120/2025/NĐ-CP tổ chức thực hiện việc xem xét trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ gây thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều 66 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 (Điều 20 Nghị định số 120/2025/NĐ-CP).

Ví dụ 3: Theo nội dung Ví dụ 2, khi UBND cấp xã giải quyết bồi thường xong đối với vụ việc, căn cứ Điều 20 Nghị định số 120/2025/NĐ-CP và Điều 66 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 thì Chủ tịch UBND cấp xã có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc xem xét trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ gây thiệt hại.

Thứ hai, trách nhiệm thu tiền hoàn trả.

Từ ngày 01/7/2025, trách nhiệm thu tiền hoàn trả được thực hiện như sau:

- Đối với trường hợp sau ngày chấm dứt hoạt động của UBND cấp huyện mà người thi hành công vụ gây thiệt hại chuyển sang cơ quan, tổ chức khác thì cơ quan, tổ chức đang trực tiếp quản lý, sử dụng, trả lương cho người thi hành công vụ gây thiệt hại có trách nhiệm thu tiền hoàn trả theo quyết định hoàn trả mà UBND cấp huyện đã ban hành trước đó và nộp vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật (Điều 70 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017).

- Đối với trường hợp sau ngày chấm dứt hoạt động của UBND cấp huyện mà người thi hành công vụ gây thiệt hại đã nghỉ hưu thì cơ quan Bảo hiểm xã hội đang trả lương hưu cho người thi hành công vụ gây thiệt hại có trách nhiệm thu tiền theo quyết định hoàn trả mà UBND cấp huyện đã ban hành trước đó và nộp đầy đủ, kịp thời vào ngân sách nhà nước (khoản 1 Điều 71 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017).

- Đối với trường hợp sau ngày chấm dứt hoạt động của UBND cấp huyện mà người thi hành công vụ gây thiệt hại đã nghỉ việc nhưng không hưởng lương hưu hoặc không làm việc tại cơ quan, tổ chức nào khác thì hành vi gây thiệt hại của UBND cấp huyện thuộc nhóm nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, đơn vị nào thì cơ quan, đơn vị đó có trách nhiệm thu tiền theo quyết định hoàn trả mà UBND cấp huyện đã ban hành trước đó và nộp vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật (điểm b mục 2.2 phần IV Công văn số 1866/BTP-PLHSHC ngày 09/4/2025 của Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ Tư pháp tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp). Trong quá trình tổ chức thực hiện, cơ quan, đơn vị tiếp nhận nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp huyện có thể phối hợp với cơ quan có liên quan để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ này.

2. Việc phân quyền, phân cấp thực hiện công tác bồi thường nhà nước khi tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp

Thực hiện chỉ đạo của Trung ương về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền theo phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”, ngày 11/6/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, theo đó, trong lĩnh vực bồi thường nhà nước, có 05 nhiệm vụ được phân quyền cho UBND cấp tỉnh thực hiện, cụ thể:

2.1. Trách nhiệm hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nước

Theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 73 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, Bộ Tư pháp có nhiệm vụ hỗ trợ người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường. Từ ngày 01/7/2025, nhiệm vụ này được giao cho UBND cấp tỉnh nơi người bị thiệt hại cư trú, nơi tổ chức bị thiệt hại đặt trụ sở hoặc UBND cấp tỉnh nơi đặt trụ sở của cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại thực hiện (Điều 18 Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).

Nội dung hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nước được thực hiện theo quy định tại Điều 13 Thông tư số 08/2025/TT-BTP, cụ thể: (i) Hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nước theo các nội dung quy định tại Điều 6 Thông tư số 09/2019/TT-BTP ngày 10/12/2019 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định biện pháp hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nước (Thông tư số 09/2019/TT-BTP); (ii) Hỗ trợ người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nước theo các nội dung quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 và 9 Điều 4 và khoản 2 Điều 5 của Thông tư số 09/2019/TT-BTP[1].

Khi thực hiện việc hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nước, trường hợp cần thống nhất nội dung hỗ trợ, hướng dẫn thì UBND cấp tỉnh nơi người bị thiệt hại cư trú, nơi tổ chức bị thiệt hại đặt trụ sở hoặc UBND cấp tỉnh nơi đặt trụ sở của cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan để hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nước (Điều 14 Thông tư số 08/2025/TT-BTP).

Việc hỗ trợ, hướng dẫn trực tiếp cho người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nước thuộc trách nhiệm của UBND cấp tỉnh được thực hiện tại trụ sở Sở Tư pháp nơi phát sinh yêu cầu hỗ trợ, hướng dẫn (Điều 15 Thông tư số 08/2025/TT-BTP).

2.2. Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm trong việc giải quyết bồi thường, thực hiện trách nhiệm hoàn trả

Theo quy định tại điểm l khoản 2 và điểm g khoản 3 Điều 73 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, Bộ Tư pháp và UBND cấp tỉnh đều có nhiệm vụ kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm trong việc giải quyết bồi thường, thực hiện trách nhiệm hoàn trả. Từ ngày 01/7/2025, theo quy định tại Điều 19 Nghị định số 121/2025/NĐ-CP, nhiệm vụ này chỉ được giao cho UBND cấp tỉnh nơi đặt trụ sở của cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại thực hiện.

2.3. Kiến nghị người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có nội dung giải quyết bồi thường

Theo quy định tại điểm m khoản 2 và điểm h khoản 3 Điều 73 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, Bộ Tư pháp và UBND cấp tỉnh đều có nhiệm vụ kiến nghị người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có nội dung giải quyết bồi thường. Từ ngày 01/7/2025, theo quy định tại khoản 1 Điều 20 Nghị định số 121/2025/NĐ-CP, nhiệm vụ này chỉ được giao cho UBND cấp tỉnh nơi đặt trụ sở cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại thực hiện.

Bản án, quyết định của Tòa án có nội dung giải quyết bồi thường bị kiến nghị là bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết vụ án dân sự về bồi thường nhà nước hoặc bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết vụ án hình sự có nội dung giải quyết yêu cầu bồi thường hoặc bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết vụ án hành chính có nội dung giải quyết yêu cầu bồi thường mà bị đơn hoặc bị đơn dân sự hoặc người bị kiện là cơ quan giải quyết bồi thường (khoản 2 Điều 20 Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).

2.4. Kiến nghị thủ trưởng cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại xem xét lại quyết định hoàn trả, quyết định giảm mức hoàn trả

Theo quy định tại khoản 2 Điều 67 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, Bộ Tư pháp và UBND cấp tỉnh đều có nhiệm vụ kiến nghị Thủ trưởng cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại xem xét lại quyết định hoàn trả, quyết định giảm mức hoàn trả. Từ ngày 01/7/2025, theo quy định tại Điều 21 Nghị định số 121/2025/NĐ-CP, nhiệm vụ này chỉ được giao cho UBND cấp tỉnh nơi đặt trụ sở cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại thực hiện.

2.5. Yêu cầu thủ trưởng cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại hủy quyết định giải quyết bồi thường

Theo quy định tại điểm m khoản 2 và điểm h khoản 3 Điều 73 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, Bộ Tư pháp và UBND cấp tỉnh đều có nhiệm vụ yêu cầu thủ trưởng cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại hủy quyết định giải quyết bồi thường. Từ ngày 01/7/2025, theo quy định tại Điều 21 Nghị định số 121/2025/NĐ-CP, nhiệm vụ này chỉ được giao cho UBND cấp tỉnh nơi đặt trụ sở cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại thực hiện.

(Ảnh: Internet)


  1. Hiện nay, Điều 5 của Thông tư số 09/2019/TT-BTP đã được bãi bỏ theo quy định tại khoản 6 Điều 10 Thông tư số 11/2025/TT-BTP ngày 25/6/2025 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều của các thông tư thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.

Nguyễn Thị Tươi - Trưởng Phòng Quản lý nghiệp vụ về bồi thường nhà nước - Cục Đăng ký giao dịch bảo đảm và Bồi thường nhà nước

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ pháp luật cho các tổ chức, cá nhân khu vực phía Nam

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ pháp luật cho các tổ chức, cá nhân khu vực phía Nam

Đối với khu vực phía Nam - nơi tập trung đông dân cư, nhiều trung tâm kinh tế trọng điểm và có sự đa dạng về điều kiện kinh tế - xã hội đang đối mặt với thách thức không nhỏ trong việc nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật và kỹ năng, nghiệp vụ pháp luật cho các tổ chức, cá nhân. Đây không chỉ là nhiệm vụ của hệ thống chính trị mà còn là trách nhiệm xã hội của các cơ sở đào tạo pháp luật trong cả nước, trong đó có Trường Cao đẳng Luật miền Nam (sau đây gọi là Trường) - với vai trò là cơ sở đào tạo pháp luật thuộc Bộ Tư pháp xác định sứ mệnh đồng hành cùng địa phương, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật tại chỗ thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, chuyên môn, nghiệp vụ pháp luật.
Công tác đào tạo cao đẳng, trung cấp pháp luật; bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp cho các tổ chức, cá nhân khu vực miền Trung - Tây Nguyên - Kết quả và định hướng

Công tác đào tạo cao đẳng, trung cấp pháp luật; bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp cho các tổ chức, cá nhân khu vực miền Trung - Tây Nguyên - Kết quả và định hướng

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là nhiệm vụ “then chốt”, trong đó, giáo dục nghề nghiệp giữ vai trò quan trọng trong đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, các nghị định hướng dẫn thi hành và các văn bản pháp luật có liên quan đã tạo hành lang pháp lý cho đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo nghề, trong đó có ngành Luật. Nhiều nghị quyết của Bộ Chính trị nhấn mạnh, cần đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp luật có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn để nâng cao hiệu quả quản lý và thực thi pháp luật. Miền Trung - Tây Nguyên là khu vực rộng lớn, đa dạng về văn hóa - xã hội, với nhiều địa bàn đặc thù như vùng cao, vùng biên giới, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Đây cũng là những nơi chịu nhiều tác động tiêu cực từ điều kiện kinh tế, thiên tai, hạ tầng giáo dục và pháp lý chưa đồng đều. Trong bối cảnh đó, việc tăng cường công tác đào tạo pháp luật và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ cơ sở, người dân và các đối tượng chuyên môn tại khu vực này không chỉ là nhiệm vụ chuyên môn, mà còn thể hiện trách nhiệm xã hội sâu sắc của ngành Tư pháp, góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo bền vững và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa từ cơ sở
Trường Đại học Luật Hà Nội - Trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật cho ngành Tư pháp và đất nước

Trường Đại học Luật Hà Nội - Trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật cho ngành Tư pháp và đất nước

Kể từ khi thành lập (ngày 10/11/1979) đến nay, được sự tin tưởng của Đảng và Nhà nước, Trường Đại học Luật Hà Nội tự hào là một trong những cơ sở đào tạo và nghiên cứu pháp luật hàng đầu của Việt Nam và tiếp tục được Chính phủ xác định là trường trọng điểm đào tạo cán bộ pháp luật theo Quyết định số 1156/QĐ-TTg ngày 30/9/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án tổng thể “Tiếp tục xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật”.
Đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Học viện Tư pháp là cơ sở đào tạo nghề luật đầu tiên trực thuộc Bộ Tư pháp và cũng là trung tâm lớn nhất đào tạo chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp của đất nước, trải qua 27 năm, hoạt động đào tạo các chức danh tư pháp và bổ trợ tư pháp của Học viện Tư pháp đã đạt được những thành tựu quan trọng, đóng góp nhiều vào sự phát triển nguồn nhân lực tư pháp của đất nước, Bộ, ngành Tư pháp và xã hội.
Văn phòng Bộ Tư pháp: Tự hào truyền thống - Đổi mới phát triển

Văn phòng Bộ Tư pháp: Tự hào truyền thống - Đổi mới phát triển

Văn phòng Bộ Tư pháp (sau đây gọi tắt là Văn phòng) - đơn vị có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và quản lý các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, tổng hợp, theo dõi, đôn đốc các đơn vị thuộc Bộ thực hiện chương trình, kế hoạch công tác của Bộ đã được phê duyệt; tham mưu, điều phối, thực hiện công tác truyền thông đối với hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và quản lý báo chí, xuất bản; tổ chức thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính, kiểm soát thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính, công tác hành chính, văn thư, lưu trữ, bảo vệ bí mật nhà nước, quản trị, tài chính, bảo vệ, quân sự, y tế của cơ quan Bộ theo quy định của pháp luật. Văn phòng được giao nhiệm vụ tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Văn phòng chính là “cầu nối” giữa Lãnh đạo Bộ và các đơn vị thuộc Bộ, góp phần bảo đảm sự vận hành thông suốt, hiệu quả trong toàn ngành Tư pháp.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý - Kết quả đạt được và một số định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý - Kết quả đạt được và một số định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bài viết về kết quả đạt được của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới.
Công tác đăng ký biện pháp bảo đảm và bồi thường nhà nước - Thành tựu đạt được và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Công tác đăng ký biện pháp bảo đảm và bồi thường nhà nước - Thành tựu đạt được và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Bài viết về thành tựu đạt được của công tác đăng ký biện pháp bảo đảm, bồi thường nhà nước và định hướng phát triển trong giai đoạn mới.
Kết quả thực hiện trợ giúp pháp lý trong ngành Kiểm sát nhân dân

Kết quả thực hiện trợ giúp pháp lý trong ngành Kiểm sát nhân dân

Thực hiện Chiến lược phát triển và mục tiêu đổi mới công tác trợ giúp pháp lý, trong những năm qua, ngành Kiểm sát nhân dân luôn tích cực, trách nhiệm hoàn thành tốt nhiệm vụ, đạt được những kết quả đáng ghi nhận.
Trợ giúp viên pháp lý Hà Nội với thách thức mới từ cải cách hành chính và công nghệ số

Trợ giúp viên pháp lý Hà Nội với thách thức mới từ cải cách hành chính và công nghệ số

Bài viết về một số khó khăn và đề xuất giải pháp để phát huy vai trò của trợ giúp viên pháp lý tại thành phố Hà Nội trong bối cảnh tổ chức lại chính quyền địa phương hai cấp và đẩy mạnh chuyển đổi số.
Thời điểm mở thừa kế của người bị tuyên bố chết theo quy định Bộ luật Dân sự

Thời điểm mở thừa kế của người bị tuyên bố chết theo quy định Bộ luật Dân sự

Bài viết về những hạn chế, bất cập trong thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về việc xác định thời điểm mở thừa kế trong trường hợp người để lại di sản thừa kế bị tuyên bố chết theo quyết định của Tòa án.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý

Đây là quy định mới theo Nghị định số 121/2025/NĐ-CP ngày 11/6/2025 của Chính phủ quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, áp dụng từ ngày 01/7/2025 đến hết ngày 28/02/2025.
Nâng cao hiệu quả công tác cải cách thể chế trên địa bàn tỉnh Lai Châu

Nâng cao hiệu quả công tác cải cách thể chế trên địa bàn tỉnh Lai Châu

Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu là cơ quan tham mưu giúp Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật, theo dõi tình hình thi hành pháp luật, kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật. Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm góp phần hoàn thiện và cải cách thể chế trên địa bàn tỉnh.
Những vấn đề cần giải quyết khi chuyển đổi số trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật Việt Nam hiện nay

Những vấn đề cần giải quyết khi chuyển đổi số trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật Việt Nam hiện nay

Chuyển đổi số là xu thế tất yếu để đổi mới phương thức phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), nâng cao nhận thức và khả năng tiếp cận pháp luật cho người dân, doanh nghiệp. Bài viết phân tích thực trạng PBGDPL tại Việt Nam, đồng thời tiếp cận các mô hình chuyển đổi số tiên tiến trên thế giới, từ đó đưa ra giải pháp và khuyến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động PBGDPL trong nước theo hướng hiện đại và bền vững.

Bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người nhiễm vi rút gây hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người

Bài viết nghiên cứu những quy định của pháp luật về bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của người nhiễm HIV, kết quả cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý cho người nhiễm HIV thời gian qua, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người nhiễm HIV thời gian tới.

Nhiều giải pháp nâng cao chất lượng công tác thi hành án dân sự trong “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”

Trong năm 2024, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức khi khối lượng công việc ngày càng nhiều, tính chất ngày càng phức tạp, yêu cầu đối với công tác thi hành án dân sự ngày càng cao, biên chế được giao giảm, số việc và số tiền thụ lý mới tiếp tục tăng, nhưng với sự chỉ đạo quyết liệt, sát sao của Chính phủ, sự nỗ lực, quyết tâm của toàn hệ thống thi hành án dân sự, đến nay, kết quả thi hành xong về việc, về tiền đều đạt và vượt chỉ tiêu được giao.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
nha-hang-thai-village
delta-group
khach-san-ladalat
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi