Để tạo hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho mô hình mới, là cơ sở để các địa phương thống nhất triển khai, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và hiệu lực quản lý nhà nước, trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ đã ban hành 02 nghị định: (i) Nghị định số 120/2025/NĐ-CP ngày 11/6/2025 của Chính phủ quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP); (ii) Nghị định số 121/2025/NĐ-CP ngày 11/6/2025 của Chính phủ quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP). Bộ trưởng Bộ Tư pháp cũng đã ban hành Thông tư số 08/2025/TT-BTP ngày 12/6/2025 quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp và phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp. Các văn bản này đã quy định rõ việc phân định thẩm quyền, phân cấp, phân quyền trong lĩnh vực của Bộ Tư pháp khi tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp, trong đó có công tác bồi thường nhà nước.
1. Phân định thẩm quyền thực hiện công tác bồi thường nhà nước khi tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp
Trong lĩnh vực bồi thường của Nhà nước, theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, Ủy ban nhân dân cấp huyện không có chức năng quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước; Ủy ban nhân dân cấp huyện là cơ quan giải quyết bồi thường theo quy định tại khoản 3 Điều 33 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 và Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) cấp huyện đã chi trả tiền bồi thường có trách nhiệm tổ chức việc xem xét trách nhiệm hoàn trả theo quy định tại Điều 66 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017. Từ ngày 01/7/2025, việc thực hiện công tác bồi thường đối với những vụ việc mà Ủy ban nhân dân cấp huyện đang giải quyết được thực hiện như sau:
1.1. Đối với việc giải quyết bồi thường
Từ ngày 01/7/2025, việc giải quyết bồi thường đối với những vụ việc mà UBND cấp huyện gây thiệt hại trước ngày 01/7/2025 được thực hiện như sau:
(i) UBND cấp tỉnh là cơ quan giải quyết bồi thường trong trường hợp hành vi gây thiệt hại của UBND cấp huyện thuộc nhóm nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp tỉnh kể từ ngày 01/7/2025 (khoản 1 Điều 19 Nghị định số 120/2025/NĐ-CP).
Ví dụ 1: Theo quy định tại khoản 2 Điều 188 Luật Đất đai 2024, UBND cấp huyện có thẩm quyền quyết định việc sử dụng đất có mặt nước là hồ, đầm thuộc địa bàn nhiều xã, phường, thị trấn. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 4 Nghị định số 151/2025/NĐ-CP ngày 12/6/2025 của Chính phủ quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp, phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực đất đai thì kể từ ngày 01/7/2025 “thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định việc sử dụng đất có mặt nước là hồ, đầm thuộc địa bàn nhiều xã, phường quy định tại khoản 2 Điều 188 Luật Đất đai chuyển giao cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện”. Như vậy, kể từ ngày 01/7/2025, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tiếp nhận thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện về quyết định việc sử dụng đất có mặt nước là hồ, đầm thuộc địa bàn nhiều xã, phường. Đối chiếu với các quy định nêu trên, trong trường hợp trước ngày 01/7/2025, UBND cấp huyện là cơ quan giải quyết bồi thường nhưng chưa giải quyết hoặc giải quyết chưa xong (liên quan đến thẩm quyền của UBND cấp huyện tại khoản 2 Điều 188 Luật Đất đai 2024) thì sau ngày 01/7/2025, UBND cấp tỉnh là cơ quan giải quyết bồi thường.
(ii) UBND cấp xã là cơ quan giải quyết bồi thường trong trường hợp hành vi gây thiệt hại của UBND cấp huyện thuộc nhóm nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã kể từ ngày 01/7/2025 (khoản 2 Điều 19 Nghị định số 120/2025/NĐ-CP).
Ví dụ 2: Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 38 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Chủ tịch UBND cấp huyện có quyền phạt tiền đến 50% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật này nhưng không quá 50.000.000 đồng. Tuy nhiên, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 5 Nghị định số 189/2025/NĐ-CP ngày 01/7/2025 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Xử lý vi phạm hành chính về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025), Chủ tịch UBND cấp xã có quyền phạt tiền đến 50% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Như vậy, căn cứ quy định tại Nghị định số 189/2025/NĐ-CP nêu trên, kể từ ngày 01/7/2025, Chủ tịch UBND cấp xã tiếp nhận thẩm quyền phạt tiền của Chủ tịch UBND cấp huyện trước đây đối với các lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Do đó, theo quy định tại Điều 19 Nghị định số 120/2025/NĐ-CP, trường hợp trước ngày 01/7/2025, UBND cấp huyện là cơ quan giải quyết bồi thường do Chủ tịch UBND cấp huyện phạt tiền trái pháp luật nhưng chưa giải quyết hoặc giải quyết chưa xong, thì sau ngày 01/7/2025, UBND cấp xã là cơ quan giải quyết bồi thường (mặc dù vậy, khi tham mưu xử lý đối với từng lĩnh vực cụ thể cần căn cứ vào quy định của văn bản pháp luật chuyên ngành về mức phạt tiền trong từng lĩnh vực).
(iii) Cơ quan chuyên môn hoặc các cơ quan, đơn vị trực thuộc UBND cấp tỉnh có tư cách pháp nhân, có tài khoản riêng là cơ quan giải quyết bồi thường trong trường hợp hành vi gây thiệt hại của UBND cấp huyện thuộc nhóm nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, đơn vị đó kể từ ngày 01/7/2025 (khoản 3 Điều 19 Nghị định số 120/2025/NĐ-CP).
1.2. Đối với việc xem xét trách nhiệm hoàn trả
Thứ nhất, thẩm quyền xem xét trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ gây thiệt hại.
Từ ngày 01/7/2025, Chủ tịch UBND cấp tỉnh, cấp xã và thủ trưởng cơ quan, đơn vị quy định tại Điều 19 Nghị định số 120/2025/NĐ-CP tổ chức thực hiện việc xem xét trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ gây thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều 66 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 (Điều 20 Nghị định số 120/2025/NĐ-CP).
Ví dụ 3: Theo nội dung Ví dụ 2, khi UBND cấp xã giải quyết bồi thường xong đối với vụ việc, căn cứ Điều 20 Nghị định số 120/2025/NĐ-CP và Điều 66 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 thì Chủ tịch UBND cấp xã có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc xem xét trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ gây thiệt hại.
Thứ hai, trách nhiệm thu tiền hoàn trả.
Từ ngày 01/7/2025, trách nhiệm thu tiền hoàn trả được thực hiện như sau:
- Đối với trường hợp sau ngày chấm dứt hoạt động của UBND cấp huyện mà người thi hành công vụ gây thiệt hại chuyển sang cơ quan, tổ chức khác thì cơ quan, tổ chức đang trực tiếp quản lý, sử dụng, trả lương cho người thi hành công vụ gây thiệt hại có trách nhiệm thu tiền hoàn trả theo quyết định hoàn trả mà UBND cấp huyện đã ban hành trước đó và nộp vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật (Điều 70 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017).
- Đối với trường hợp sau ngày chấm dứt hoạt động của UBND cấp huyện mà người thi hành công vụ gây thiệt hại đã nghỉ hưu thì cơ quan Bảo hiểm xã hội đang trả lương hưu cho người thi hành công vụ gây thiệt hại có trách nhiệm thu tiền theo quyết định hoàn trả mà UBND cấp huyện đã ban hành trước đó và nộp đầy đủ, kịp thời vào ngân sách nhà nước (khoản 1 Điều 71 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017).
- Đối với trường hợp sau ngày chấm dứt hoạt động của UBND cấp huyện mà người thi hành công vụ gây thiệt hại đã nghỉ việc nhưng không hưởng lương hưu hoặc không làm việc tại cơ quan, tổ chức nào khác thì hành vi gây thiệt hại của UBND cấp huyện thuộc nhóm nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, đơn vị nào thì cơ quan, đơn vị đó có trách nhiệm thu tiền theo quyết định hoàn trả mà UBND cấp huyện đã ban hành trước đó và nộp vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật (điểm b mục 2.2 phần IV Công văn số 1866/BTP-PLHSHC ngày 09/4/2025 của Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ Tư pháp tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp). Trong quá trình tổ chức thực hiện, cơ quan, đơn vị tiếp nhận nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp huyện có thể phối hợp với cơ quan có liên quan để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ này.
2. Việc phân quyền, phân cấp thực hiện công tác bồi thường nhà nước khi tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp
Thực hiện chỉ đạo của Trung ương về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền theo phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”, ngày 11/6/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, theo đó, trong lĩnh vực bồi thường nhà nước, có 05 nhiệm vụ được phân quyền cho UBND cấp tỉnh thực hiện, cụ thể:
2.1. Trách nhiệm hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nước
Theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 73 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, Bộ Tư pháp có nhiệm vụ hỗ trợ người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường. Từ ngày 01/7/2025, nhiệm vụ này được giao cho UBND cấp tỉnh nơi người bị thiệt hại cư trú, nơi tổ chức bị thiệt hại đặt trụ sở hoặc UBND cấp tỉnh nơi đặt trụ sở của cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại thực hiện (Điều 18 Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Nội dung hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nước được thực hiện theo quy định tại Điều 13 Thông tư số 08/2025/TT-BTP, cụ thể: (i) Hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nước theo các nội dung quy định tại Điều 6 Thông tư số 09/2019/TT-BTP ngày 10/12/2019 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định biện pháp hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nước (Thông tư số 09/2019/TT-BTP); (ii) Hỗ trợ người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nước theo các nội dung quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 và 9 Điều 4 và khoản 2 Điều 5 của Thông tư số 09/2019/TT-BTP[1].
Khi thực hiện việc hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nước, trường hợp cần thống nhất nội dung hỗ trợ, hướng dẫn thì UBND cấp tỉnh nơi người bị thiệt hại cư trú, nơi tổ chức bị thiệt hại đặt trụ sở hoặc UBND cấp tỉnh nơi đặt trụ sở của cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan để hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nước (Điều 14 Thông tư số 08/2025/TT-BTP).
Việc hỗ trợ, hướng dẫn trực tiếp cho người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nước thuộc trách nhiệm của UBND cấp tỉnh được thực hiện tại trụ sở Sở Tư pháp nơi phát sinh yêu cầu hỗ trợ, hướng dẫn (Điều 15 Thông tư số 08/2025/TT-BTP).
2.2. Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm trong việc giải quyết bồi thường, thực hiện trách nhiệm hoàn trả
Theo quy định tại điểm l khoản 2 và điểm g khoản 3 Điều 73 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, Bộ Tư pháp và UBND cấp tỉnh đều có nhiệm vụ kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm trong việc giải quyết bồi thường, thực hiện trách nhiệm hoàn trả. Từ ngày 01/7/2025, theo quy định tại Điều 19 Nghị định số 121/2025/NĐ-CP, nhiệm vụ này chỉ được giao cho UBND cấp tỉnh nơi đặt trụ sở của cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại thực hiện.
Theo quy định tại điểm m khoản 2 và điểm h khoản 3 Điều 73 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, Bộ Tư pháp và UBND cấp tỉnh đều có nhiệm vụ kiến nghị người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có nội dung giải quyết bồi thường. Từ ngày 01/7/2025, theo quy định tại khoản 1 Điều 20 Nghị định số 121/2025/NĐ-CP, nhiệm vụ này chỉ được giao cho UBND cấp tỉnh nơi đặt trụ sở cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại thực hiện.
Bản án, quyết định của Tòa án có nội dung giải quyết bồi thường bị kiến nghị là bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết vụ án dân sự về bồi thường nhà nước hoặc bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết vụ án hình sự có nội dung giải quyết yêu cầu bồi thường hoặc bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết vụ án hành chính có nội dung giải quyết yêu cầu bồi thường mà bị đơn hoặc bị đơn dân sự hoặc người bị kiện là cơ quan giải quyết bồi thường (khoản 2 Điều 20 Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Theo quy định tại khoản 2 Điều 67 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, Bộ Tư pháp và UBND cấp tỉnh đều có nhiệm vụ kiến nghị Thủ trưởng cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại xem xét lại quyết định hoàn trả, quyết định giảm mức hoàn trả. Từ ngày 01/7/2025, theo quy định tại Điều 21 Nghị định số 121/2025/NĐ-CP, nhiệm vụ này chỉ được giao cho UBND cấp tỉnh nơi đặt trụ sở cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại thực hiện.
Theo quy định tại điểm m khoản 2 và điểm h khoản 3 Điều 73 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, Bộ Tư pháp và UBND cấp tỉnh đều có nhiệm vụ yêu cầu thủ trưởng cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại hủy quyết định giải quyết bồi thường. Từ ngày 01/7/2025, theo quy định tại Điều 21 Nghị định số 121/2025/NĐ-CP, nhiệm vụ này chỉ được giao cho UBND cấp tỉnh nơi đặt trụ sở cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại thực hiện.
(Ảnh: Internet)
Hiện nay, Điều 5 của Thông tư số 09/2019/TT-BTP đã được bãi bỏ theo quy định tại khoản 6 Điều 10 Thông tư số 11/2025/TT-BTP ngày 25/6/2025 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều của các thông tư thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.