1. Công tác phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật
1.1. Một số kết quả đạt được
Thời gian qua, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) có nhiều đổi mới và đạt được nhiều kết quả nổi bật như:
Thứ nhất, về nhận thức: nhận thức của cấp ủy, tổ chức Đảng, đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong các bộ, ngành, đoàn thể trung ương và địa phương về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác PBGDPL trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được nâng lên. Điều này được minh chứng rõ nét qua sự ghi nhận vai trò của công tác PBGDPL trong các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành thời gian qua[1]. Theo đó, công tác PBGDPL đã trở thành một phần trong quy trình xây dựng, soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ hai, về thể chế: thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW), để nâng cao nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Hội đồng phối hợp PBGDPL Trung ương đã đưa vào Kế hoạch hoạt động hàng năm[2] và giao Bộ Giáo dục và Đào tạo rà soát, đánh giá việc đưa nội dung về Hiến pháp, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào chương trình giáo dục, chương trình đào tạo, bồi dưỡng tại các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân. Trên cơ sở chỉ đạo của Hội đồng phối hợp PBGDPL Trung ương, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có hướng dẫn các Sở Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các cơ sở giáo dục thuộc phạm vi quản lý lưu ý lồng ghép giáo dục các nội dung hợp lý về pháp luật, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào các bài giảng cho trong năm học 2024 - 2025[3].
Những văn bản trên đã tạo cơ sở chính trị, pháp lý vững chắc góp phần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, PBGDPL trong hệ thống chính trị rõ nét và toàn diện hơn.
Thứ ba, về nguồn lực: nguồn lực bảo đảm cho việc thực hiện công tác PBGDPL đã được các cấp chính quyền quan tâm hơn, về cơ bản, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ và nhu cầu thông tin pháp luật theo từng lĩnh vực, địa bàn. Số lượng, chất lượng nguồn nhân lực thực hiện công tác PBGDPL từng bước được cải thiện, nâng cao, bảo đảm ngày càng tốt hơn nhiệm vụ được giao trong quản lý cũng như các hoạt động PBGDPL. Công tác tập huấn, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức và kỹ năng PBGDPL cho đội ngũ này cũng được chú trọng thực hiện theo định kỳ hàng năm.
Nguồn lực tài chính cũng như các chính sách hỗ trợ cho đội ngũ những người làm công tác PBGDPL từng bước được bảo đảm. Việc huy động các nguồn lực tham gia công tác PBGDPL được chú trọng với nhiều phương thức và mô hình phong phú, linh hoạt.
Thứ tư, về phương thức: công tác PBGDPL đã có nhiều đổi mới theo hướng lấy người dân làm trung tâm, chú trọng hướng về cơ sở, ưu tiên nguồn lực thực hiện PBGDPL cho đối tượng yếu thế, người dân ở miền núi, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Với định hướng này, Bộ Tư pháp đã tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án nâng cao năng lực cho đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật thực hiện PBGDPL tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2024 - 2030[4] và Đề án nâng cao năng lực đội ngũ hòa giải viên cơ sở giai đoạn 2024 - 2030[5]. Bên cạnh đó, thời gian qua, PBGDPL cũng đã trở thành một trong những nhiệm vụ, nội dung trọng tâm trong triển khai các Chương trình mục tiêu quốc gia hướng tới đối tượng là người dân ở miền núi, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Tiếp tục đổi mới hình thức PBGDPL, trong đó, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong công tác PBGDPL bằng nhiều hình thức phong phú, góp phần đưa pháp luật đến với người dân, doanh nghiệp nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm chi phí và có sức lan tỏa rộng. Để triển khai kịp thời, đồng bộ các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước và chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về đổi mới công tác PBGDPL thông qua môi trường số, góp phần đột phá trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, Bộ Tư pháp đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 766/QĐ-TTg ngày 15/4/2025 về phê duyệt Đề án “Chuyển đổi số trong công tác PBGDPL giai đoạn 2025 - 2030” tạo cơ sở pháp lý và nguồn lực cho công tác này.
Tổ chức triển khai nhiều sự kiện chính trị pháp lý quan trọng, giúp lan tỏa rộng rãi tinh thần thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong xã hội để hưởng ứng Ngày Pháp luật Việt Nam 9/11.
1.2. Một số định hướng phát triển công tác phổ biến, giáo dục trong kỷ nguyên mới
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện thể chế, chính sách trong công tác PBGDPL để tạo hành lang pháp lý vững chắc, nhằm tiếp tục phát huy vai trò, vị thế và kịp thời thích ứng với bối cảnh mới của Việt Nam, trong đó, trọng tâm là nghiên cứu, trình dự án Luật thay thế Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 để đáp ứng các yêu cầu của Đảng và Nhà nước trong kỷ nguyên mới.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới tư duy và phương thức tổ chức PBGDPL theo hướng lấy người dân làm trung tâm; tập trung xây dựng mạng lưới, nâng cao năng lực của hệ thống dịch vụ pháp lý, trợ giúp pháp lý và hỗ trợ pháp lý để người dân và doanh nghiệp dễ tiếp cận pháp luật; nghiên cứu cá thể hóa nội dung và cách tiếp cận thông tin pháp luật phù hợp với đặc điểm từng đối tượng, chú trọng ưu tiên nguồn lực cho các đối tượng yếu thế; phát huy cao nhất tinh thần, ý chí, sức mạnh của nhân dân - chủ thể đóng vai trò trung tâm của sự nghiệp kiến tạo kỷ nguyên mới. Do đó, công tác PBGDPL cần phải được đổi mới tư duy và hành động để gắn công tác này với từng đối tượng cụ thể.
Thứ ba, đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số trong công tác PBGDPL gắn với việc thực hiện hiệu quả Đề án “Chuyển đổi số trong công tác PBGDPL giai đoạn 2025 - 2030”; đẩy mạnh thực hiện các hoạt động PBGDPL trên các nền tảng số, không gian số, bảo đảm bám sát các chủ trương quan trọng được đề ra tại Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, tạo tiền đề sáng tạo, thúc đẩy phát triển khoa học - công nghệ, chuyển đổi số trong các lĩnh vực quản lý. Trọng tâm là xây dựng, phát triển Cổng Pháp luật quốc gia thành địa chỉ tập trung, duy nhất cho công tác xây dựng và thi hành pháp luật.
Thứ tư, nâng cao trách nhiệm thực hiện truyền thông chính sách trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo hướng phát huy hơn nữa tính năng động, sáng tạo, tích cực, vai trò, trách nhiệm của các chủ thể, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các cơ quan báo chí chủ lực của Nhà nước trong phối hợp triển khai các hoạt động truyền thông chính sách; tổ chức thực hiện hiệu quả Quyết định số 407/QĐ-TTg ngày 30/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tổ chức truyền thông chính sách có tác động lớn đến xã hội trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật giai đoạn 2022 - 2027”.
![]() |
| Ảnh do Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý cung cấp. |
Thứ năm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác PBGDPL theo hướng chuyên nghiệp và hiện đại, đáp ứng yêu cầu công việc đặt ra; có chính sách giúp huy động sự tham gia của lực lượng có kiến thức, năng lực truyền tải thông tin pháp luật trong xã hội vào các hoạt động PBGDPL; có chính sách thúc đẩy, phát triển đội ngũ PBGDPL cho các đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ sáu, bảo đảm nguồn lực tài chính phù hợp, tương xứng cho công tác PBGDPL; ưu tiên nguồn lực tương xứng cho công tác PBGDPL, trợ giúp pháp lý cho đối tượng đặc thù, yếu thế, đồng bào dân tộc thiếu số; tiếp tục đổi mới cơ chế phân bổ kinh phí, bảo đảm tài chính để thực hiện hiệu quả hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số hiệu quả.
Thứ bảy, thúc đẩy hội nhập quốc tế và nghiên cứu, tham khảo, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm về PBGDPL tại các quốc gia trên thế giới, bảo đảm nâng tầm vị thế của Việt Nam đối với khu vực, quốc tế ngày càng được nâng cao, trở thành đối tác chiến lược, toàn diện với nhiều quốc gia trên thế giới.
2. Nâng cao vai trò, hiện đại hóa, phát triển trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong giai đoạn mới
2.1. Một số kết quả đạt được
2.1.1. Về hệ thống tổ chức và người thực hiện trợ giúp pháp lý
Ở trung ương, Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý (TGPL) trong phạm vi cả nước. Ở địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về TGPL trong phạm vi địa phương. Sở Tư pháp là cơ quan tham mưu giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ TGPL. Trung tâm TGPL nhà nước là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, có tư cách pháp nhân, con dấu và tài khoản riêng. Tính đến hết năm 2024, theo báo cáo của 63 Sở Tư pháp, toàn quốc có 63 Trung tâm TGPL nhà nước với 1.252 người làm việc (trong đó có 712 trợ giúp viên pháp lý, 411 chuyên viên pháp lý); 97 Chi nhánh của Trung tâm TGPL nhà nước đặt ở cấp huyện, liên huyện. Bên cạnh đó, còn có 728 cá nhân ký hợp đồng thực hiện TGPL (luật sư, cộng tác viên TGPL), 177 tổ chức đăng ký tham gia TGPL và 20 tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL với Sở Tư pháp.
2.1.2. Thể chế trợ giúp pháp lý
Đến nay, pháp luật về TGPL tương đối đầy đủ, gồm 23 văn bản quy phạm pháp luật đang có hiệu lực (01 luật, 01 nghị định, 15 thông tư và 06 thông tư liên tịch) điều chỉnh toàn diện các vấn đề của TGPL: mô hình tổ chức thực hiện TGPL, người được TGPL, tổ chức thực hiện TGPL, các hoạt động nghiệp vụ TGPL, chế độ chính sách đối với người thực hiện TGPL, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong công tác TGPL... Chế định TGPL cũng đã được quy định trong các luật, bộ luật tố tụng như: Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung các năm 2021, 2025), Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 và các luật sửa đổi, bổ sung các luật này. Bên cạnh đó, nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác cũng có các quy định bảo đảm thực hiện TGPL.
2.1.3. Thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý
Theo số liệu thống kê từ ngày 01/01/2018 đến ngày 31/12/2024, hệ thống TGPL trên toàn quốc đã thực hiện được 234.569 vụ việc TGPL cho 234.569 lượt người được TGPL, trong đó số vụ việc tham gia tố tụng kết thúc năm sau cao hơn năm trước đáng kể[6]. Riêng trong năm 2024, cả nước đã thực hiện 60.044 vụ việc TGPL, số lượng vụ việc tham gia tố tụng trong năm 2024 tăng cao so với cùng kỳ năm 2023[7]. Tất cả vụ việc thẩm định, đánh giá đều đạt chất lượng và ngày càng được nâng cao. Đến nay chưa có khiếu nại, tố cáo về chất lượng vụ việc TGPL.
2.1.4. Ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong trợ giúp pháp lý
Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ, ngành Tư pháp đã tăng cường, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong công tác TGPL. Hệ thống công nghệ thông tin “Quản lý, tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý” được sử dụng để số hóa thông tin, lưu trữ thông tin của 2.627 nhân sự, 261 tổ chức với trên 31.000 vụ việc TGPL, trên 200.000 hồ sơ vụ việc TGPL cùng hơn 2.300 tài khoản đăng nhập[8]. Hiện, Bộ Tư pháp đang nghiên cứu xây dựng, triển khai Dự án đầu tư công “Hệ thống thông tin trợ giúp pháp lý”. Khi dự án được hoàn thành sẽ khắc phục những bất cập về kỹ thuật, công nghệ cũng như đáp ứng các yêu cầu về nghiệp vụ, quản lý, bảo đảm kết nối an toàn, ổn định, nâng cao hiệu quả chuyển đổi số trong công tác TGPL.
2.1.5. Công tác truyền thông về trợ giúp pháp lý
Công tác truyền thông về TGPL cũng được chú trọng đẩy mạnh thực hiện với nhiều hình thức đa dạng: truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, tờ gấp pháp luật, thông điệp về TGPL, truyền thông trực tiếp cho người dân tại cơ sở, thông qua đội ngũ cán bộ ở cơ sở kết nối người dân với hoạt động TGPL... Các vụ việc thành công cũng được lựa chọn để xây dựng kịch bản diễn án, phóng sự.
Với những kết quả đạt được, công tác TGPL thời gian qua đã tiếp tục khẳng định vai trò trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người nghèo, người có công với cách mạng và đối tượng yếu thế, dễ tổn thương trong xã hội, thể hiện rõ nét chức năng xã hội của Nhà nước trong bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật; góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và thực hiện chính sách an sinh xã hội, phát triển sinh kế, giảm nghèo bền vững.
2.2. Một số hạn chế
- Pháp luật về TGPL hiện chưa quy định rõ về việc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định số lượng Trung tâm TGPL tại địa phương, điều kiện thành lập Chi nhánh nên chưa có sự chủ động cho địa phương thành lập Chi nhánh tại các địa bàn theo điều kiện thực tế để có thể tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận tổ chức thực hiện TGPL.
- Nhận thức và sự quan tâm của một số cơ quan, tổ chức và người dân về công tác TGPL chưa đầy đủ, còn tình trạng thông tin, phối hợp chưa kịp thời, chưa hiệu quả. Thêm vào đó, nhiều trường hợp vì lý do khác nhau như tâm lý e ngại, thói quen, phong tục, điều kiện sức khỏe, địa lý… nên không yêu cầu hỗ trợ và TGPL.
- Số lượng vụ việc TGPL, nhất là số vụ việc TGPL tham gia tố tụng còn thấp so với số lượng người thuộc diện được TGPL[9]. Việc trực TGPL ở Tòa án nhân dân và trực TGPL trong điều tra hình sự được quy định ở chương trình phối hợp và mới triển khai thực hiện từ năm 2022 nên chưa phát huy hết hiệu quả. Chất lượng vụ việc TGPL chưa đồng đều. Công tác thẩm định, đánh giá chất lượng, hiệu quả vụ việc TGPL ở một số địa phương triển khai thực hiện chưa đồng đều, chưa thực chất...
- Nguồn nhân lực thực hiện TGPL ở một số địa phương chưa tương ứng với nhu cầu TGPL của người dân, nhất là số lượng trợ giúp viên pháp lý ở một số địa phương còn ít[10], trong khi đó, sự tham gia TGPL của các tổ chức xã hội nghề nghiệp, người hành nghề luật còn chừng mực; nhiều tỉnh (trước sáp nhập) không có tổ chức tham gia TGPL như: An Giang, Bình Dương, Bắc Kạn, Bắc Giang, Bạc Liêu, Bình Định, Bình Phước, Bình Thuận, Đắc Nông,...
- Kinh phí dành cho công tác TGPL ở một số địa phương chưa được bố trí đầy đủ, nhất là so với nhu cầu vụ việc TGPL[11]; kinh phí triển khai hoạt động TGPL trong các chương trình mục tiêu quốc gia cấp cho các địa phương theo mỗi chương trình khác nhau và chưa đồng đều nên việc triển khai chưa đồng bộ, kịp thời… Việc bố trí cơ sở vật chất ở một số Trung tâm TGPL nhà nước chưa được quan tâm đúng mức, nhất là việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động TGPL như xây dựng điểm cầu thành phần và tham gia phiên tòa trực tuyến, phương tiện làm việc phục vụ hoạt động nghề nghiệp,...
2.3. Định hướng phát triển trợ giúp pháp lý trong thời gian tới
Một là, xây dựng mạng lưới, nâng cao năng lực của hệ thống dịch vụ pháp lý, TGPL và hỗ trợ pháp lý để người dân, doanh nghiệp dễ tiếp cận pháp luật; nâng cao vai trò, tính chuyên nghiệp và chất lượng TGPL, nhất là trong hoạt động tố tụng tư pháp; hiện đại hóa, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống TGPL; mở rộng đối tượng được TGPL phù hợp với điều kiện của đất nước[12].
Hai là, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hệ thống TGPL, để người dân dễ tiếp cận pháp luật; ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số đồng bộ trong phổ biến, giáo dục pháp luật, TGPL; bố trí nguồn ngân sách phù hợp, tương xứng cho công tác tổ chức thi hành pháp luật; ưu tiên nguồn lực tương xứng đối với công tác TGPL cho đối tượng đặc thù, yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số[13].
Ba là, nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến, dịch vụ số cho người dân và doanh nghiệp, hướng tới cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình, cá nhân hoá và dựa trên dữ liệu; tăng cường giám sát, đánh giá và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong phục vụ Nhân dân[14].
Trong bối cảnh thực hiện tổ chức chính quyền địa phương hai cấp, sáp nhập tỉnh và có nhiều chủ trương mới (đẩy mạnh phát triển khoa học, công nghệ, chuyển đổi số quốc gia, hội nhập quốc tế...), hoạt động TGPL cần có những đột phá, đổi mới mạnh mẽ để đáp ứng các yêu cầu phát triển trong bối cảnh mới. Với yêu cầu đổi mới trong xây dựng và thi hành pháp luật, lĩnh vực TGPL phải có sự thay đổi toàn diện, sâu sắc, từ tổ chức quản lý đến hoạt động chuyên môn. Trước hết, thể chế về TGPL cần sớm được sửa đổi theo hướng đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho cơ quan quản lý nhà nước về TGPL ở địa phương và tạo cơ chế thuận lợi nhất để người dân thụ hưởng kịp thời quyền được TGPL. Mạng lưới tổ chức TGPL cần được tổ chức linh hoạt, tinh gọn, hiệu năng, hiệu quả, phù hợp với mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Đội ngũ trợ giúp viên pháp lý là lực lượng nòng cốt thực hiện TGPL cần tinh thông, chuyên nghiệp, hiện đại; thu hút các nguồn lực xã hội tham gia công tác TGPL để bảo đảm đa dạng nguồn lực, tạo sức mạnh tổng thể, đủ khả năng thực hiện yêu cầu của công tác TGPL trong thời gian tới.
2.4. Một số giải pháp nâng cao vai trò, hiện đại hóa, phát triển trợ giúp pháp lý trong giai đoạn mới
Một là, hoàn thiện thể chế về TGPL: (i) nghiên cứu, đề xuất bổ sung đưa nội dung được TGPL miễn phí trong quyền bào chữa của công dân khi họ không đủ khả năng thuê luật sư là quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp nhằm góp phần bảo đảm công bằng trước pháp luật; (ii) sửa đổi Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các văn bản có liên quan góp phần hoàn thiện thể chế TGPL với một số định hướng như: thành lập mạng lưới các tổ chức TGPL phù hợp với việc trực tiếp cung cấp dịch vụ TGPL cho người dân là người yếu thế, có hoàn cảnh khó khăn (người nghèo, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật, trẻ em,...); mở rộng diện người được TGPL, phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; mở rộng những người thuộc trường hợp bắt buộc có người bào chữa thuộc diện TGPL bảo đảm phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế của đất nước; nghiên cứu mở rộng phạm vi, lĩnh vực pháp luật thực hiện TGPL...
Hai là, xây dựng mạng lưới các tổ chức thực hiện TGPL đáp ứng hiệu quả nhu cầu TGPL ngày càng đa dạng của người dân: (i) củng cố, kiện toàn các Trung tâm TGPL nhà nước, Chi nhánh của Trung tâm, bảo đảm đủ nguồn lực với chuyên môn cao, đáp ứng đầy đủ, kịp thời và có hiệu quả nhu cầu TGPL của người dân; (ii) mở rộng mạng lưới các tổ chức tham gia hỗ trợ hoạt động TGPL. Khuyến khích, huy động sự tham gia của tổ chức, cá nhân có liên quan, nhất là đội ngũ cán bộ cơ sở, người có uy tín trong cộng đồng, đội ngũ tuyên truyền viên pháp luật, báo cáo viên pháp luật, hòa giải viên cơ sở, người tham gia lực lượng bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở… tham gia công tác TGPL trong phối hợp truyền thông TGPL; thông tin, thông báo về TGPL; (iii) nâng cao năng lực, phát huy vai trò của cơ quan, tổ chức TGPL trong phối hợp liên ngành về TGPL trong hoạt động tố tụng, tránh bỏ sót nhu cầu TGPL của người dân, chú trọng nhu cầu TGPL của các đương sự trong vụ án dân sự, hành chính; phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan trong thông tin về TGPL đến người dân.
Ba là, củng cố đội ngũ người thực hiện TGPL chuyên nghiệp: (i) phát triển đội ngũ người thực hiện TGPL (trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện TGPL, tư vấn viên pháp luật, cộng tác viên TGPL) đủ về số lượng, bảo đảm đáp ứng đầy đủ nhu cầu TGPL của người dân; (ii) tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ người thực hiện TGPL, chú trọng xây dựng đội ngũ trợ giúp viên pháp lý chuyên nghiệp, có khả năng ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong thực hiện TGPL, nâng cao hiệu suất giải quyết công việc, tiết kiệm thời gian và chi phí...
Bốn là, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về TGPL: (i) tăng cường quản lý, theo dõi chất lượng TGPL do người thực hiện TGPL cung cấp thông qua việc đánh giá chất lượng thực chất, căn cứ vào quá trình thực hiện vụ việc TGPL của người thực hiện TGPL; (ii) trang bị kiến thức, kỹ năng tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng của công chức làm công tác quản lý TGPL; (iii) hoàn thiện các cơ sở dữ liệu về TGPL (người thực hiện TGPL, người đã được TGPL, người thuộc diện TGPL, số vụ việc TGPL,...) để phục vụ khai thác thông tin mọi lúc, mọi nơi.
Năm là, đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin trong TGPL: (i) xây dựng và vận hành hiệu quả Hệ thống thông tin TGPL, trong đó, chú trọng ứng dụng AI để hỗ trợ cung cấp thông tin và hướng dẫn người dân về TGPL; (ii) đẩy mạnh kết nối, chia sẻ dữ liệu liên ngành nhằm tối đa hóa việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến, công nhận kết quả điện tử các thủ tục hành chính đã thực hiện; (iii) đẩy mạnh thực hiện thủ tục hành chính trong lĩnh vực TGPL trên môi trường điện tử, khuyến khích, hướng dẫn, hỗ trợ người dân và các tổ chức thực hiện các thủ tục hành chính về TGPL theo phương thức trực tuyến./.
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp
[1]. Tiêu biểu, Nghị quyết số 27-NQ/TW xác định “đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân về Hiến pháp và pháp luật, về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và yêu cầu, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” và yêu cầu “Tiếp tục đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật”. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 đã quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan lập đề xuất chính sách, cơ quan chủ trì soạn thảo trong thực hiện truyền thông chính sách và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật (khoản 4 Điều 68).
[2]. Theo Quyết định số 15/QĐ-HĐPH ngày 15/3/2023, Quyết định số 51/QĐ-HĐPH ngày 04/4/2024, Quyết định số 44/QĐ-HĐPH ngày 26/4/2025 của Hội đồng phối hợp PBGDPL Trung ương.
[3]. Công văn số 5154/BGDĐT-PC ngày 06/9/2024 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc hướng dẫn nhiệm vụ năm học 2024 - 2025 về công tác pháp chế.
[4]. Ban hành kèm theo Quyết định số 279/QĐ-TTg ngày 04/4/2024 của Thủ tướng Chính phủ.
[5]. Ban hành kèm theo Quyết định số 315/QĐ-BTP ngày 17/4/2024 của Thủ tướng Chính phủ.
[6]. Theo số liệu thống kê của các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước trên toàn quốc, số vụ việc tham gia tố tụng kết thúc năm 2018 là 11.860 vụ việc, năm 2019 là 13.428 vụ việc, năm 2020 là 16.168 vụ việc, năm 2021 là 17.966 vụ việc, năm 2022 là 21.276 vụ việc và năm 2023 là 26.816 vụ việc và năm 2024 là 31.718 vụ việc.
[7]. Số vụ việc trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng thành công năm 2024 là 9.592 vụ việc (tăng 7% so với cùng kỳ năm 2023).
[8]. Theo dữ liệu của hệ thống quản lý tổ chức và hoạt động TGPL.
[9]. Ước tính có khoảng 45 triệu người thuộc diện được TGPL (Báo cáo số 141/BC-BTP ngày 14/7/2021).
[10]. Ví dụ, tính đến hết năm 2024, thành phố Đà Nẵng có 03 trợ giúp pháp lý, Kon Tum có 03 trợ giúp pháp lý, Lai Châu có 04 trợ giúp pháp lý.
[11]. Ví dụ, các địa phương trước khi sáp nhập: Kon Tum, Ninh Bình, Hậu Giang, Hòa Bình...
[12]. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
[13]. Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
[14]. Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật ấn phẩm “Ngành Tư pháp - Tự hào truyền thống, vững bước tương lai”)