Thứ sáu 12/12/2025 06:38
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.

1. Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số của Bộ, ngành Tư pháp

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), chuyển đổi số của Bộ, ngành Tư pháp được triển khai chủ động, tích cực trên cơ sở bám sát các chủ trương, chính sách, văn bản chỉ đạo chiến lược quan trọng của Đảng, Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với quá trình chuyển đổi số quốc gia[1].

1.1. Thành tựu ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số giai đoạn 2015 - 2025

1.1.1. Giai đoạn 2015 - 2020: xây dựng nền tảng phục vụ Chính phủ điện tử, bước đầu nhận thức về chuyển đổi số, Chính phủ số

- Bộ, ngành Tư pháp đã chủ động, tích cực đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong các lĩnh vực quản lý, từng bước đổi mới phương thức điều hành, nâng cao chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp, góp phần xây dựng nền hành chính công khai, minh bạch và hiện đại. Giai đoạn 2015 - 2020 là giai đoạn đặt nền móng quan trọng về thể chế, chính sách, hạ tầng kỹ thuật, cơ sở dữ liệu và nhận thức trong toàn ngành Tư pháp về vai trò, tầm quan trọng của ứng dụng CNTT xây dựng Chính phủ điện tử và bước đầu hình thành nhận thức về chuyển đổi số, Chính phủ số, với kết quả nổi bật như: hạ tầng kỹ thuật CNTT được triển khai tập trung, thống nhất tại Trung tâm dữ liệu điện tử của Bộ Tư pháp tại trụ sở Bộ, từng bước đáp ứng yêu cầu triển khai các ứng dụng CNTT của Bộ, ngành Tư pháp trên phạm vi toàn quốc. Hiện, toàn bộ hệ thống thông tin, phần mềm ứng dụng, cơ sở dữ liệu của ngành Tư pháp được cài đặt, vận hành tại Trung tâm dữ liệu điện tử. Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.

- Bộ Tư pháp đã xây dựng, nâng cấp và đưa vào vận hành nhiều hệ thống thông tin, phần mềm, ứng dụng quản lý nghiệp vụ quan trọng và từng bước được triển khai trên toàn quốc, góp phần hiện đại hóa công tác chuyên môn, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực tư pháp như: hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính; hệ thống thông tin đăng ký và quản lý hộ tịch; hệ thống thông tin lý lịch tư pháp; phần mềm thống kê ngành Tư pháp; phần mềm quản lý văn bản, điều hành và hồ sơ lưu trữ; Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật; trục tích hợp, chia sẻ thông tin Bộ Tư pháp (LGSP)…

- Đổi mới phương thức chỉ đạo, điều hành thông qua ứng dụng CNTT: phần mềm quản lý văn bản, điều hành và hồ sơ lưu trữ được triển khai đồng bộ tại tất cả đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, 95% văn bản nội bộ được xử lý qua mạng, giảm mạnh việc sử dụng văn bản giấy. Bên cạnh đó, hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến được Bộ ứng dụng mạnh mẽ, kết nối từ trung ương đến địa phương, góp phần đổi mới quản lý, nâng cao hiệu quả điều hành và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí…

Như vậy, có thể khẳng định, Bộ Tư pháp là một trong những bộ, ngành tiên phong trong triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ cao (mức độ 3, mức độ 4) và sớm kết nối với Cổng dịch vụ công quốc gia, với nhiều hệ thống phần mềm chuyên ngành đã được tích hợp, đồng bộ, phục vụ người dân trên quy mô toàn quốc từ rất sớm. Các hệ thống thông tin, phần mềm ứng dụng của Bộ Tư pháp được triển khai phù hợp với Kiến trúc Chính phủ điện tử Bộ Tư pháp, phiên bản 2.0 đưa Bộ Tư pháp trở thành một trong những bộ, ngành tiên phong trong ứng dụng CNTT, hình thành các nền tảng cơ bản phục vụ xây dựng Chính phủ điện tử, chuyển đổi số và xây dựng Chính phủ số.

1.1.2. Giai đoạn 2020 - 2025: tăng tốc chuyển đổi số, triển khai đồng bộ và quy mô lớn

Thứ nhất, tiếp nối thành công của giai đoạn 2015 - 2020, Bộ, ngành Tư pháp xác định giai đoạn 2020 - 2025 là thời kỳ tăng tốc mạnh mẽ, mang tính bản lề trong thực hiện chuyển đổi số.

(i) Về thể chế: giai đoạn 2020 - 2025, Bộ Tư pháp tập trung xây dựng và hoàn thiện thể chế để chuyển đổi số toàn diện cho các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp. Trên cơ sở chủ trương, định hướng của Đảng, Chính phủ, Bộ đã ban hành và tham mưu ban hành nhiều văn bản quan trọng, định hướng rõ về mục tiêu, lộ trình và giải pháp chuyển đổi số ngành Tư pháp như: Chiến lược chuyển đổi số ngành Tư pháp đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (ban hành kèm theo Quyết định số 2404/QĐ-BTP ngày 22/12/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp); Kế hoạch ứng dụng CNTT, phát triển Chính phủ số và bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng ngành Tư pháp năm 2024 và các năm trước đó[2]; Kế hoạch triển khai Nghị quyết số 175/NQ-CP ngày 30/10/2023 của Chính phủ về Đề án Trung tâm dữ liệu quốc gia (ban hành kèm theo Quyết định số 1775/QĐ-BTP ngày 26/9/2024 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp)... Nhờ hệ thống thể chế được thiết lập bài bản, đầy đủ và có chiều sâu, hoạt động chuyển đổi số ngành Tư pháp đã có bước phát triển mạnh mẽ, đồng bộ và bền vững, chuyển từ ứng dụng CNTT đơn lẻ sang mô hình chuyển đổi số toàn diện, tổ chức và có quy mô lớn.

(ii) Hạ tầng kỹ thuật CNTT: nâng cấp Trung tâm dữ liệu điện tử, bảo đảm vận hành ổn định 24/7 cho 30 hệ thống, phần mềm đang sử dụng, trong đó, nhiều hệ thống có quy mô toàn quốc và tích hợp, kết nối với Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NDXP) thông qua Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu tư pháp (NIIS).

(iii) Một số hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu, phần mềm, ứng dụng nổi bật được hoàn thiện, mở rộng và hiện đại hóa như hệ thống: thông tin đăng ký và quản lý hộ tịch; thông tin lý lịch tư pháp (cấp Phiếu lý lịch tư pháp qua ứng dụng VneID); đăng ký giao dịch bảo đảm trực tuyến; Cổng dịch vụ công Bộ Tư pháp... Một số hệ thống mới được xây dựng như hệ thống: trợ giúp pháp lý trực tuyến; phổ biến, giáo dục pháp luật; giám sát xử lý vi phạm hành chính; báo cáo số liệu thống kê ngành Tư pháp; Cổng thông tin tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp; Cổng Pháp luật quốc gia. Hoàn thiện Nền tảng NIIS, bảo đảm kết nối thông suốt với Nền tảng NDXP, hỗ trợ chia sẻ dữ liệu liên thông giữa Bộ Tư pháp với các bộ, ngành và địa phương.

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới
Ảnh do Cục Công nghệ thông tin cung cấp.

Thứ hai, chuyển giao một số hệ thống thông tin quan trọng về cơ quan chuyên trách để phù hợp với yêu cầu phát triển và tái cấu trúc quản lý trong giai đoạn mới. Điều này thể hiện bước chuyển chiến lược từ “xây dựng” sang “vận hành ổn định, tối ưu và khai thác hiệu quả” trong tiến trình chuyển đổi số ngành Tư pháp. Cụ thể:

- Tháng 01/2024, Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật được chuyển giao từ Cục Công nghệ thông tin sang Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (nay là Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính) để thống nhất chức năng cập nhật, kiểm tra và chuẩn hóa hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.

- Tháng 3/2025, hệ thống thông tin lý lịch tư pháp được bàn giao cho Bộ Công an quản lý, tạo thuận lợi cho việc tích hợp, đối chiếu và xác minh dữ liệu công dân với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.

- Tháng 4/2025, Cổng thông tin điện tử được chuyển giao cho Báo Pháp luật Việt Nam, nhằm tăng cường tính chuyên nghiệp, truyền thông chính sách và thông tin pháp luật sâu rộng hơn đến người dân.

Trong thực tiễn triển khai chuyển đổi số Bộ, ngành Tư pháp giai đoạn 2020 - 2025, đặc biệt, trong năm 2024, 2025 cho thấy, bước chuyển mạnh mẽ không chỉ ở công nghệ mà còn ở tư duy, nhận thức và phương pháp tổ chức thực hiện. Tư duy chuyển đổi số được định hình rõ nét, từ “ứng dụng CNTT” sang “chuyển đổi số toàn diện”, với trọng tâm là cải cách thể chế, đổi mới mô hình quản lý, nâng cao chất lượng phục vụ người dân và doanh nghiệp.

Đặc biệt, việc xây dựng Cổng Pháp luật quốc gia được Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ Tư pháp tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc quán triệt Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới (Nghị quyết số 66-NQ/TW) và Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân với mục tiêu là địa chỉ chính thống, độ tin cậy cao, phục vụ người dân, doanh nghiệp trong tiếp cận chính sách, pháp luật. Chỉ sau 02 tuần, với sự nỗ lực, quyết tâm, khẩn trương của các đơn vị có liên quan trong và ngoài Bộ, Cổng Pháp luật quốc gia đã được xây dựng, hoàn thiện và đưa vào vận hành, khai thác.

Thứ ba, triển khai thử nghiệm một số ứngdụng mới.

Triển khai thực hiện các định hướng lớn trong Nghị quyết số 66-NQ/TW, trong đó, nhấn mạnh vai trò của chuyển đổi số, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và phục vụ người dân, Bộ Tư pháp đã chủ động thử nghiệm nhiều ứng dụng số mới, hướng đến chuyển đổi mô hình quản trị, xử lý công việc và khai thác dữ liệu trong toàn hệ thống như: xây dựng Trợ lý ảo rà soát văn bản quy phạm pháp luật, phần mềm chuyển đổi giọng nói thành văn bản, hệ thống quản lý văn bản, điều hành và phòng họp không giấy, nền tảng tổng hợp và phân tích dữ liệu.

Có thể thấy, giai đoạn 2020 - 2025 thực sự là bước chuyển mạnh mẽ sang giai đoạn tăng tốc, triển khai thực chất và hiệu quả, phản ánh rõ định hướng các nghị quyết lớn của Đảng và Chính phủ[3], đánh dấu sự phát triển nhanh, mạnh của Bộ, ngành Tư pháp trên nhiều phương diện từ cơ sở hạ tầng kỹ thuật CNTT đến phát triển, hoàn thiện các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu và tiến tới xây dựng các ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI).

2. Một số khó khăn, hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình ứng dụng CNTT, chuyển đổi số của Bộ, ngành Tư pháp còn gặp không ít khó khăn, thách thức cần tiếp tục tháo gỡ trong thời gian tới.

Thứ nhất, về thể chế, chính sách. Một số quy định pháp luật hiện hành thiếu đồng bộ, chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn chuyển đổi số. Một số lĩnh vực chưa có hành lang pháp lý rõ ràng cho việc ứng dụng công nghệ mới như AI, trợ lý ảo, xử lý văn bản pháp luật tự động...

Thứ hai, về hạ tầng kỹ thuật. Do đã được đầu tư nhiều năm, hạ tầng CNTT của Bộ đang đối mặt với tình trạng quá tải. Trung tâm dữ liệu đã sử dụng đến ngưỡng cao (nhiều máy chủ hoạt động trên 80% công suất); nhiều thiết bị đã cũ, hết khấu hao, tiềm ẩn nguy cơ hỏng, gây gián đoạn hệ thống.

Thứ ba, về nguồn lực. Đội ngũ cán bộ kỹ thuật có chuyên môn sâu về CNTT còn mỏng, thiếu cơ chế khuyến khích, đãi ngộ và giữ chân cán bộ có năng lực, trình độ cao. Công tác đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng số chưa đáp ứng được tốc độ phát triển công nghệ.

Việc bố trí nguồn lực tài chính cho ứng dụng CNTT, chuyển đổi số còn gặp một số khó khăn nhất định. Kinh phí đầu tư chưa thực sự ổn định và đồng đều giữa các năm; một số thời điểm việc duy trì vận hành hệ thống CNTT gặp trở ngại do hạn chế trong phân bổ ngân sách thường xuyên, ảnh hưởng đến tiến độ triển khai và bảo đảm hoạt động thông suốt của các hệ thống.

Về tổ chức thực hiện, một số dự án, nhiệm vụ chuyển đổi số triển khai còn chậm; cơ chế phối hợp giữa các đơn vị trong Bộ và giữa Bộ với địa phương chưa thực sự chặt chẽ, thiếu đồng bộ trong tổ chức thực hiện và vận hành hệ thống.

3. Định hướng phát triển đến năm 2030

3.1. Quan điểm chỉ đạo

Thứ nhất, chuyển đổi số ngành Tư pháp là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, lâu dài, xuyên suốt trong toàn Bộ, ngành Tư pháp; là động lực để nâng cao hiệu quả quản lý, tổ chức thực thi pháp luật và phục vụ người dân, doanh nghiệp được tốt hơn.

Thứ hai, phát triển Chính phủ số, xã hội số và công dân số trong lĩnh vực tư pháp phải lấy dữ liệu làm trung tâm, người dân, doanh nghiệp làm chủ thể, công nghệ là động lực thúc đẩy.

Thứ ba, bảo đảm đồng bộ giữa cải cách hành chính và chuyển đổi số, giữa đầu tư hạ tầng kỹ thuật với nâng cao năng lực cán bộ, giữa hiện đại hóa công nghệ với hoàn thiện thể chế pháp lý.

3.2. Mục tiêu

Thứ nhất, hình thành hệ sinh thái số toàn diện trong lĩnh vực tư pháp, trong đó, dữ liệu là tài nguyên chiến lược, công nghệ số là công cụ cốt lõi, dịch vụ công là đầu ra thiết thực, người dân và doanh nghiệp là trung tâm phục vụ.

Thứ hai, Bộ Tư pháp trở thành một trong những bộ đi đầu trong xếp hạng chỉ số chuyển đổi số cấp bộ, góp phần nâng cao năng lực quản trị nhà nước và hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật.

Thứ ba, hoàn thiện các nền tảng số ngành Tư pháp: Nền tảng NIIS, nền tảng định danh, nền tảng phân tích dữ liệu, nền tảng tổng hợp và điều hành tác nghiệp.

Thứ tư, xây dựng, đưa vào khai thác hiệu quả các cơ sở dữ liệu lớn về pháp luật và tiếp tục quản lý, khai thác hiệu quả các cơ sở dữ liệu khác như: hộ tịch, quốc tịch, xử lý vi phạm hành chính, công chứng, thi hành án dân sự, pháp luật Việt Nam.

Thứ năm, các đơn vị thuộc Bộ xử lý công việc trên môi trường mạng, sử dụng chữ ký số cá nhân, không sử dụng văn bản giấy trong các cuộc họp, điều hành công vụ.

3.3. Một số định hướng trọng tâm

Thứ nhất, phát triển hạ tầng số hiện đại, bảo đảm khả năng xử lý tập trung, an toàn, đáp ứng kết nối toàn ngành và liên thông với các hệ thống ngoài Bộ Tư pháp.

Thứ hai, tập trung hoàn thiện các nền tảng số dùng chung của ngành Tư pháp; tạo môi trường làm việc số và không gian dữ liệu mở phục vụ toàn ngành.

Thứ ba, ứng dụng AI trong xây dựng, kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật; triển khai trợ lý ảo phục vụ quản lý, điều hành và hỗ trợ nghiệp vụ chuyên môn.

Thứ tư, tiếp tục triển khai các hệ thống phần mềm dùng chung như phòng họp không giấy, hệ thống văn bản điều hành điện tử tích hợp thiết bị di động, phần mềm nhận diện giọng nói và xử lý văn bản.

Thứ năm, thực hiện chuẩn hóa, số hóa quy trình nghiệp vụ, dịch vụ công trong toàn ngành, lấy trải nghiệm người dân làm tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện.

3.4. Nhiệm vụ và giải pháp

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế pháp lý phục vụ chuyển đổi số: (i) tập trung rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành các văn bản, đề án tạo hành lang pháp lý đầy đủ, thuận lợi cho ứng dụng CNTT, chuyển đổi số trong ngành Tư pháp[4]; (ii) cụ thể hóa các cơ chế đặc thù trong Nghị quyết số 66-NQ/TW và Nghị quyết số 197/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật, nhất là về ngân sách, nhân lực, phân cấp, phân quyền trong phê duyệt chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư các dự án ứng dụng CNTT, chuyển đổi số trong ngành Tư pháp; (iii) xây dựng các bộ quy chuẩn, tiêu chuẩn về an toàn thông tin, định danh, xác thực, dữ liệu mở trong ngành Tư pháp.

Thứ hai, đầu tư, phát triển hạ tầng số và nền tảng số ngành Tư pháp: (i) nâng cấp toàn diện Trung tâm dữ liệu điện tử của Bộ Tư pháp, tăng cường khả năng lưu trữ, xử lý, bảo mật dữ liệu; (ii) xây dựng nền tảng điều hành tác nghiệp nội bộ, nền tảng kết nối liên thông các hệ thống phần mềm tại Bộ và địa phương; (iii) triển khai Cổng dữ liệu và tiếp tục cung cấp các bộ dữ liệu mở có chất lượng và giá trị khai thác cao, mở dữ liệu theo quy định của pháp luật để phục vụ chuyển đổi số toàn diện. Hướng dẫn, đôn đốc các đơn vị khai thác, sử dụng hiệu quả việc kết nối, liên thông dữ liệu.

Thứ ba, phát triển, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành: (i) triển khai đồng bộ các dự án cơ sở dữ liệu ngành Tư pháp giai đoạn 2026 - 2030, như cơ sở dữ liệu: pháp luật Việt Nam, bổ trợ tư pháp, thi hành án dân sự, xử lý vi phạm hành chính; (ii) bảo đảm tính mở, liên thông, chuẩn hóa và khai thác hiệu quả các cơ sở dữ liệu này phục vụ công tác quản lý, xây dựng chính sách và phục vụ người dân.

Thứ tư, tăng cường cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình: (i) thực hiện số hóa toàn bộ quy trình thủ tục hành chính; đồng thời, tích hợp sâu với hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đăng ký kinh doanh, bảo hiểm xã hội...; (ii) nâng cấp Cổng dịch vụ công của Bộ, ứng dụng AI để hỗ trợ người dùng thực hiện thủ tục hành chính trực tuyến.

Thứ năm, bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng: (i) tăng cường năng lực giám sát an toàn thông tin, phân loại cấp độ an toàn thông tin cho các hệ thống CNTT của Bộ theo quy định; (ii) vận hành thường xuyên Đội ứng cứu sự cố mạng Bộ Tư pháp, tập huấn kịch bản ứng phó sự cố an ninh mạng theo tình huống thực tế; (iii) đầu tư giải pháp mã hóa, bảo vệ dữ liệu quan trọng và cá nhân hóa truy cập thông tin theo phân quyền, phân cấp.

Thứ sáu, phát triển nhân lực, nâng cao nhận thức và thúc đẩy đổi mới tư duy số: (i) tổ chức các chương trình bồi dưỡng chuyên sâu cho cán bộ kỹ thuật và bồi dưỡng cơ bản về kỹ năng số cho toàn thể công chức, viên chức; (ii) xây dựng chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao về CNTT làm việc tại Bộ, đặc biệt, ở các vị trí quản trị dữ liệu, an toàn thông tin, phát triển phần mềm; (iii) đẩy mạnh truyền thông nội bộ, lan tỏa tinh thần đổi mới sáng tạo, thúc đẩy chuyển đổi nhận thức toàn ngành từ “làm thủ công” sang “tư duy số”./.

Cục Công nghệ thông tin, Bộ Tư pháp

[1]. Đặc biệt, một số văn bản định hướng, tạo hành lang pháp lý quan trọng như: Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Nghị quyết số 52-NQ/TW); Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030 (Nghị quyết số 76/NQ-CP); Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết số 57-NQ/TW); Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06); các quyết định Chiến lược chuyển đổi số ngành Tư pháp đến năm 2030; Kế hoạch “Chuyển đổi số Ngành Tư pháp đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”…

[2]. Kế hoạch ứng dụng CNTT, phát triển Chính phủ số và bảo đảm an toàn thông tin mạng năm 2021 (ban hành kèm theo Quyết định số 2668/QĐ-BTP ngày 31/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp); Kế hoạch ứng dụng CNTT, phát triển Chính phủ số và bảo đảm an toàn thông tin mạng giai đoạn 2021- 2025 (ban hành kèm theo Quyết định số Quyết định số 682/QĐ-BTP ngày 07/5/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp); Kế hoạch phát triển Chính phủ số và bảo đảm an toàn thông tin mạng năm 2022 (ban hành kèm theo Quyết định số 2000/QĐ-BTP ngày 31/12/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp).

[3]. Như Nghị quyết số 52-NQ/TW, Nghị quyết số 76/NQ-CP, Nghị quyết số 57-NQ/TW, Nghị quyết số 66-NQ/TW...

[4]. Nghị quyết của Ban Thường vụ Đảng ủy về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số giai đoạn 2026 - 2030: xây dựng Kiến trúc Chính phủ số Bộ Tư pháp phiên bản 4.0; xây dựng Đề án ứng dụng CNTT, chuyển đổi số Bộ Tư pháp giai đoạn 2026 - 2030; xây dựng Đề án ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong công tác xây dựng, kiểm tra và rà soát văn bản quy phạm pháp luật.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật ấn phẩm đặc biệt “Ngành Tư pháp - Tự hào truyền thống, vững bước tương lai”)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết phân tích vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước.
Ngành Tư pháp thành phố Huế và những đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương

Ngành Tư pháp thành phố Huế và những đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương

Trải qua 35 năm xây dựng và phát triển, cùng với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Tư pháp, Thành ủy, Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố và tinh thần trách nhiệm, đoàn kết, sáng tạo, nỗ lực, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, toàn ngành Tư pháp thành phố Huế đã triển khai thực hiện các mục tiêu với tinh thần vào cuộc “từ sớm, từ xa”, tập trung giải quyết, xử lý kịp thời những vấn đề mới phát sinh, thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ “hàng rào kỹ thuật” về các vấn đề pháp lý, nhất là lĩnh vực trực tiếp gắn liền với người dân, doanh nghiệp; góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng, phát triển của thành phố Huế, ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Sở Tư pháp tỉnh Hà Tĩnh đóng góp quan trọng trong hành trình phát triển kinh tế - xã hội

Sở Tư pháp tỉnh Hà Tĩnh đóng góp quan trọng trong hành trình phát triển kinh tế - xã hội

Trong bức tranh tổng thể phát triển của tỉnh Hà Tĩnh, Sở Tư pháp ngày càng thể hiện rõ vai trò nòng cốt trong tham mưu xây dựng thể chế, kiến tạo hành lang pháp lý vững chắc thông qua những hoạt động chuyên môn sâu, rộng và tinh thần đổi mới sáng tạo không ngừng, góp phần quan trọng vào sự phát triển toàn diện, bền vững của địa phương.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ pháp luật cho các tổ chức, cá nhân khu vực phía Nam

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ pháp luật cho các tổ chức, cá nhân khu vực phía Nam

Đối với khu vực phía Nam - nơi tập trung đông dân cư, nhiều trung tâm kinh tế trọng điểm và có sự đa dạng về điều kiện kinh tế - xã hội đang đối mặt với thách thức không nhỏ trong việc nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật và kỹ năng, nghiệp vụ pháp luật cho các tổ chức, cá nhân. Đây không chỉ là nhiệm vụ của hệ thống chính trị mà còn là trách nhiệm xã hội của các cơ sở đào tạo pháp luật trong cả nước, trong đó có Trường Cao đẳng Luật miền Nam (sau đây gọi là Trường) - với vai trò là cơ sở đào tạo pháp luật thuộc Bộ Tư pháp xác định sứ mệnh đồng hành cùng địa phương, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật tại chỗ thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, chuyên môn, nghiệp vụ pháp luật.
Công tác đào tạo cao đẳng, trung cấp pháp luật; bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp cho các tổ chức, cá nhân khu vực miền Trung - Tây Nguyên - Kết quả và định hướng

Công tác đào tạo cao đẳng, trung cấp pháp luật; bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp cho các tổ chức, cá nhân khu vực miền Trung - Tây Nguyên - Kết quả và định hướng

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là nhiệm vụ “then chốt”, trong đó, giáo dục nghề nghiệp giữ vai trò quan trọng trong đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, các nghị định hướng dẫn thi hành và các văn bản pháp luật có liên quan đã tạo hành lang pháp lý cho đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo nghề, trong đó có ngành Luật. Nhiều nghị quyết của Bộ Chính trị nhấn mạnh, cần đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp luật có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn để nâng cao hiệu quả quản lý và thực thi pháp luật. Miền Trung - Tây Nguyên là khu vực rộng lớn, đa dạng về văn hóa - xã hội, với nhiều địa bàn đặc thù như vùng cao, vùng biên giới, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Đây cũng là những nơi chịu nhiều tác động tiêu cực từ điều kiện kinh tế, thiên tai, hạ tầng giáo dục và pháp lý chưa đồng đều. Trong bối cảnh đó, việc tăng cường công tác đào tạo pháp luật và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ cơ sở, người dân và các đối tượng chuyên môn tại khu vực này không chỉ là nhiệm vụ chuyên môn, mà còn thể hiện trách nhiệm xã hội sâu sắc của ngành Tư pháp, góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo bền vững và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa từ cơ sở
Trường Đại học Luật Hà Nội - Trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật cho ngành Tư pháp và đất nước

Trường Đại học Luật Hà Nội - Trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật cho ngành Tư pháp và đất nước

Kể từ khi thành lập (ngày 10/11/1979) đến nay, được sự tin tưởng của Đảng và Nhà nước, Trường Đại học Luật Hà Nội tự hào là một trong những cơ sở đào tạo và nghiên cứu pháp luật hàng đầu của Việt Nam và tiếp tục được Chính phủ xác định là trường trọng điểm đào tạo cán bộ pháp luật theo Quyết định số 1156/QĐ-TTg ngày 30/9/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án tổng thể “Tiếp tục xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật”.
Đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Học viện Tư pháp là cơ sở đào tạo nghề luật đầu tiên trực thuộc Bộ Tư pháp và cũng là trung tâm lớn nhất đào tạo chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp của đất nước, trải qua 27 năm, hoạt động đào tạo các chức danh tư pháp và bổ trợ tư pháp của Học viện Tư pháp đã đạt được những thành tựu quan trọng, đóng góp nhiều vào sự phát triển nguồn nhân lực tư pháp của đất nước, Bộ, ngành Tư pháp và xã hội.
Văn phòng Bộ Tư pháp: Tự hào truyền thống - Đổi mới phát triển

Văn phòng Bộ Tư pháp: Tự hào truyền thống - Đổi mới phát triển

Văn phòng Bộ Tư pháp (sau đây gọi tắt là Văn phòng) - đơn vị có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và quản lý các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, tổng hợp, theo dõi, đôn đốc các đơn vị thuộc Bộ thực hiện chương trình, kế hoạch công tác của Bộ đã được phê duyệt; tham mưu, điều phối, thực hiện công tác truyền thông đối với hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và quản lý báo chí, xuất bản; tổ chức thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính, kiểm soát thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính, công tác hành chính, văn thư, lưu trữ, bảo vệ bí mật nhà nước, quản trị, tài chính, bảo vệ, quân sự, y tế của cơ quan Bộ theo quy định của pháp luật. Văn phòng được giao nhiệm vụ tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Văn phòng chính là “cầu nối” giữa Lãnh đạo Bộ và các đơn vị thuộc Bộ, góp phần bảo đảm sự vận hành thông suốt, hiệu quả trong toàn ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].

Theo dõi chúng tôi trên: