1. Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số của Bộ, ngành Tư pháp
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), chuyển đổi số của Bộ, ngành Tư pháp được triển khai chủ động, tích cực trên cơ sở bám sát các chủ trương, chính sách, văn bản chỉ đạo chiến lược quan trọng của Đảng, Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với quá trình chuyển đổi số quốc gia[1].
1.1. Thành tựu ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số giai đoạn 2015 - 2025
1.1.1. Giai đoạn 2015 - 2020: xây dựng nền tảng phục vụ Chính phủ điện tử, bước đầu nhận thức về chuyển đổi số, Chính phủ số
- Bộ, ngành Tư pháp đã chủ động, tích cực đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong các lĩnh vực quản lý, từng bước đổi mới phương thức điều hành, nâng cao chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp, góp phần xây dựng nền hành chính công khai, minh bạch và hiện đại. Giai đoạn 2015 - 2020 là giai đoạn đặt nền móng quan trọng về thể chế, chính sách, hạ tầng kỹ thuật, cơ sở dữ liệu và nhận thức trong toàn ngành Tư pháp về vai trò, tầm quan trọng của ứng dụng CNTT xây dựng Chính phủ điện tử và bước đầu hình thành nhận thức về chuyển đổi số, Chính phủ số, với kết quả nổi bật như: hạ tầng kỹ thuật CNTT được triển khai tập trung, thống nhất tại Trung tâm dữ liệu điện tử của Bộ Tư pháp tại trụ sở Bộ, từng bước đáp ứng yêu cầu triển khai các ứng dụng CNTT của Bộ, ngành Tư pháp trên phạm vi toàn quốc. Hiện, toàn bộ hệ thống thông tin, phần mềm ứng dụng, cơ sở dữ liệu của ngành Tư pháp được cài đặt, vận hành tại Trung tâm dữ liệu điện tử. Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
- Bộ Tư pháp đã xây dựng, nâng cấp và đưa vào vận hành nhiều hệ thống thông tin, phần mềm, ứng dụng quản lý nghiệp vụ quan trọng và từng bước được triển khai trên toàn quốc, góp phần hiện đại hóa công tác chuyên môn, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực tư pháp như: hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính; hệ thống thông tin đăng ký và quản lý hộ tịch; hệ thống thông tin lý lịch tư pháp; phần mềm thống kê ngành Tư pháp; phần mềm quản lý văn bản, điều hành và hồ sơ lưu trữ; Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật; trục tích hợp, chia sẻ thông tin Bộ Tư pháp (LGSP)…
- Đổi mới phương thức chỉ đạo, điều hành thông qua ứng dụng CNTT: phần mềm quản lý văn bản, điều hành và hồ sơ lưu trữ được triển khai đồng bộ tại tất cả đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, 95% văn bản nội bộ được xử lý qua mạng, giảm mạnh việc sử dụng văn bản giấy. Bên cạnh đó, hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến được Bộ ứng dụng mạnh mẽ, kết nối từ trung ương đến địa phương, góp phần đổi mới quản lý, nâng cao hiệu quả điều hành và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí…
Như vậy, có thể khẳng định, Bộ Tư pháp là một trong những bộ, ngành tiên phong trong triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ cao (mức độ 3, mức độ 4) và sớm kết nối với Cổng dịch vụ công quốc gia, với nhiều hệ thống phần mềm chuyên ngành đã được tích hợp, đồng bộ, phục vụ người dân trên quy mô toàn quốc từ rất sớm. Các hệ thống thông tin, phần mềm ứng dụng của Bộ Tư pháp được triển khai phù hợp với Kiến trúc Chính phủ điện tử Bộ Tư pháp, phiên bản 2.0 đưa Bộ Tư pháp trở thành một trong những bộ, ngành tiên phong trong ứng dụng CNTT, hình thành các nền tảng cơ bản phục vụ xây dựng Chính phủ điện tử, chuyển đổi số và xây dựng Chính phủ số.
1.1.2. Giai đoạn 2020 - 2025: tăng tốc chuyển đổi số, triển khai đồng bộ và quy mô lớn
Thứ nhất, tiếp nối thành công của giai đoạn 2015 - 2020, Bộ, ngành Tư pháp xác định giai đoạn 2020 - 2025 là thời kỳ tăng tốc mạnh mẽ, mang tính bản lề trong thực hiện chuyển đổi số.
(i) Về thể chế: giai đoạn 2020 - 2025, Bộ Tư pháp tập trung xây dựng và hoàn thiện thể chế để chuyển đổi số toàn diện cho các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp. Trên cơ sở chủ trương, định hướng của Đảng, Chính phủ, Bộ đã ban hành và tham mưu ban hành nhiều văn bản quan trọng, định hướng rõ về mục tiêu, lộ trình và giải pháp chuyển đổi số ngành Tư pháp như: Chiến lược chuyển đổi số ngành Tư pháp đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (ban hành kèm theo Quyết định số 2404/QĐ-BTP ngày 22/12/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp); Kế hoạch ứng dụng CNTT, phát triển Chính phủ số và bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng ngành Tư pháp năm 2024 và các năm trước đó[2]; Kế hoạch triển khai Nghị quyết số 175/NQ-CP ngày 30/10/2023 của Chính phủ về Đề án Trung tâm dữ liệu quốc gia (ban hành kèm theo Quyết định số 1775/QĐ-BTP ngày 26/9/2024 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp)... Nhờ hệ thống thể chế được thiết lập bài bản, đầy đủ và có chiều sâu, hoạt động chuyển đổi số ngành Tư pháp đã có bước phát triển mạnh mẽ, đồng bộ và bền vững, chuyển từ ứng dụng CNTT đơn lẻ sang mô hình chuyển đổi số toàn diện, tổ chức và có quy mô lớn.
(ii) Hạ tầng kỹ thuật CNTT: nâng cấp Trung tâm dữ liệu điện tử, bảo đảm vận hành ổn định 24/7 cho 30 hệ thống, phần mềm đang sử dụng, trong đó, nhiều hệ thống có quy mô toàn quốc và tích hợp, kết nối với Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NDXP) thông qua Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu tư pháp (NIIS).
(iii) Một số hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu, phần mềm, ứng dụng nổi bật được hoàn thiện, mở rộng và hiện đại hóa như hệ thống: thông tin đăng ký và quản lý hộ tịch; thông tin lý lịch tư pháp (cấp Phiếu lý lịch tư pháp qua ứng dụng VneID); đăng ký giao dịch bảo đảm trực tuyến; Cổng dịch vụ công Bộ Tư pháp... Một số hệ thống mới được xây dựng như hệ thống: trợ giúp pháp lý trực tuyến; phổ biến, giáo dục pháp luật; giám sát xử lý vi phạm hành chính; báo cáo số liệu thống kê ngành Tư pháp; Cổng thông tin tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp; Cổng Pháp luật quốc gia. Hoàn thiện Nền tảng NIIS, bảo đảm kết nối thông suốt với Nền tảng NDXP, hỗ trợ chia sẻ dữ liệu liên thông giữa Bộ Tư pháp với các bộ, ngành và địa phương.
![]() |
| Ảnh do Cục Công nghệ thông tin cung cấp. |
Thứ hai, chuyển giao một số hệ thống thông tin quan trọng về cơ quan chuyên trách để phù hợp với yêu cầu phát triển và tái cấu trúc quản lý trong giai đoạn mới. Điều này thể hiện bước chuyển chiến lược từ “xây dựng” sang “vận hành ổn định, tối ưu và khai thác hiệu quả” trong tiến trình chuyển đổi số ngành Tư pháp. Cụ thể:
- Tháng 01/2024, Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật được chuyển giao từ Cục Công nghệ thông tin sang Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (nay là Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính) để thống nhất chức năng cập nhật, kiểm tra và chuẩn hóa hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
- Tháng 3/2025, hệ thống thông tin lý lịch tư pháp được bàn giao cho Bộ Công an quản lý, tạo thuận lợi cho việc tích hợp, đối chiếu và xác minh dữ liệu công dân với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
- Tháng 4/2025, Cổng thông tin điện tử được chuyển giao cho Báo Pháp luật Việt Nam, nhằm tăng cường tính chuyên nghiệp, truyền thông chính sách và thông tin pháp luật sâu rộng hơn đến người dân.
Trong thực tiễn triển khai chuyển đổi số Bộ, ngành Tư pháp giai đoạn 2020 - 2025, đặc biệt, trong năm 2024, 2025 cho thấy, bước chuyển mạnh mẽ không chỉ ở công nghệ mà còn ở tư duy, nhận thức và phương pháp tổ chức thực hiện. Tư duy chuyển đổi số được định hình rõ nét, từ “ứng dụng CNTT” sang “chuyển đổi số toàn diện”, với trọng tâm là cải cách thể chế, đổi mới mô hình quản lý, nâng cao chất lượng phục vụ người dân và doanh nghiệp.
Đặc biệt, việc xây dựng Cổng Pháp luật quốc gia được Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ Tư pháp tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc quán triệt Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới (Nghị quyết số 66-NQ/TW) và Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân với mục tiêu là địa chỉ chính thống, độ tin cậy cao, phục vụ người dân, doanh nghiệp trong tiếp cận chính sách, pháp luật. Chỉ sau 02 tuần, với sự nỗ lực, quyết tâm, khẩn trương của các đơn vị có liên quan trong và ngoài Bộ, Cổng Pháp luật quốc gia đã được xây dựng, hoàn thiện và đưa vào vận hành, khai thác.
Thứ ba, triển khai thử nghiệm một số ứngdụng mới.
Triển khai thực hiện các định hướng lớn trong Nghị quyết số 66-NQ/TW, trong đó, nhấn mạnh vai trò của chuyển đổi số, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và phục vụ người dân, Bộ Tư pháp đã chủ động thử nghiệm nhiều ứng dụng số mới, hướng đến chuyển đổi mô hình quản trị, xử lý công việc và khai thác dữ liệu trong toàn hệ thống như: xây dựng Trợ lý ảo rà soát văn bản quy phạm pháp luật, phần mềm chuyển đổi giọng nói thành văn bản, hệ thống quản lý văn bản, điều hành và phòng họp không giấy, nền tảng tổng hợp và phân tích dữ liệu.
Có thể thấy, giai đoạn 2020 - 2025 thực sự là bước chuyển mạnh mẽ sang giai đoạn tăng tốc, triển khai thực chất và hiệu quả, phản ánh rõ định hướng các nghị quyết lớn của Đảng và Chính phủ[3], đánh dấu sự phát triển nhanh, mạnh của Bộ, ngành Tư pháp trên nhiều phương diện từ cơ sở hạ tầng kỹ thuật CNTT đến phát triển, hoàn thiện các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu và tiến tới xây dựng các ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI).
2. Một số khó khăn, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình ứng dụng CNTT, chuyển đổi số của Bộ, ngành Tư pháp còn gặp không ít khó khăn, thách thức cần tiếp tục tháo gỡ trong thời gian tới.
Thứ nhất, về thể chế, chính sách. Một số quy định pháp luật hiện hành thiếu đồng bộ, chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn chuyển đổi số. Một số lĩnh vực chưa có hành lang pháp lý rõ ràng cho việc ứng dụng công nghệ mới như AI, trợ lý ảo, xử lý văn bản pháp luật tự động...
Thứ hai, về hạ tầng kỹ thuật. Do đã được đầu tư nhiều năm, hạ tầng CNTT của Bộ đang đối mặt với tình trạng quá tải. Trung tâm dữ liệu đã sử dụng đến ngưỡng cao (nhiều máy chủ hoạt động trên 80% công suất); nhiều thiết bị đã cũ, hết khấu hao, tiềm ẩn nguy cơ hỏng, gây gián đoạn hệ thống.
Thứ ba, về nguồn lực. Đội ngũ cán bộ kỹ thuật có chuyên môn sâu về CNTT còn mỏng, thiếu cơ chế khuyến khích, đãi ngộ và giữ chân cán bộ có năng lực, trình độ cao. Công tác đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng số chưa đáp ứng được tốc độ phát triển công nghệ.
Việc bố trí nguồn lực tài chính cho ứng dụng CNTT, chuyển đổi số còn gặp một số khó khăn nhất định. Kinh phí đầu tư chưa thực sự ổn định và đồng đều giữa các năm; một số thời điểm việc duy trì vận hành hệ thống CNTT gặp trở ngại do hạn chế trong phân bổ ngân sách thường xuyên, ảnh hưởng đến tiến độ triển khai và bảo đảm hoạt động thông suốt của các hệ thống.
Về tổ chức thực hiện, một số dự án, nhiệm vụ chuyển đổi số triển khai còn chậm; cơ chế phối hợp giữa các đơn vị trong Bộ và giữa Bộ với địa phương chưa thực sự chặt chẽ, thiếu đồng bộ trong tổ chức thực hiện và vận hành hệ thống.
3. Định hướng phát triển đến năm 2030
3.1. Quan điểm chỉ đạo
Thứ nhất, chuyển đổi số ngành Tư pháp là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, lâu dài, xuyên suốt trong toàn Bộ, ngành Tư pháp; là động lực để nâng cao hiệu quả quản lý, tổ chức thực thi pháp luật và phục vụ người dân, doanh nghiệp được tốt hơn.
Thứ hai, phát triển Chính phủ số, xã hội số và công dân số trong lĩnh vực tư pháp phải lấy dữ liệu làm trung tâm, người dân, doanh nghiệp làm chủ thể, công nghệ là động lực thúc đẩy.
Thứ ba, bảo đảm đồng bộ giữa cải cách hành chính và chuyển đổi số, giữa đầu tư hạ tầng kỹ thuật với nâng cao năng lực cán bộ, giữa hiện đại hóa công nghệ với hoàn thiện thể chế pháp lý.
3.2. Mục tiêu
Thứ nhất, hình thành hệ sinh thái số toàn diện trong lĩnh vực tư pháp, trong đó, dữ liệu là tài nguyên chiến lược, công nghệ số là công cụ cốt lõi, dịch vụ công là đầu ra thiết thực, người dân và doanh nghiệp là trung tâm phục vụ.
Thứ hai, Bộ Tư pháp trở thành một trong những bộ đi đầu trong xếp hạng chỉ số chuyển đổi số cấp bộ, góp phần nâng cao năng lực quản trị nhà nước và hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật.
Thứ ba, hoàn thiện các nền tảng số ngành Tư pháp: Nền tảng NIIS, nền tảng định danh, nền tảng phân tích dữ liệu, nền tảng tổng hợp và điều hành tác nghiệp.
Thứ tư, xây dựng, đưa vào khai thác hiệu quả các cơ sở dữ liệu lớn về pháp luật và tiếp tục quản lý, khai thác hiệu quả các cơ sở dữ liệu khác như: hộ tịch, quốc tịch, xử lý vi phạm hành chính, công chứng, thi hành án dân sự, pháp luật Việt Nam.
Thứ năm, các đơn vị thuộc Bộ xử lý công việc trên môi trường mạng, sử dụng chữ ký số cá nhân, không sử dụng văn bản giấy trong các cuộc họp, điều hành công vụ.
3.3. Một số định hướng trọng tâm
Thứ nhất, phát triển hạ tầng số hiện đại, bảo đảm khả năng xử lý tập trung, an toàn, đáp ứng kết nối toàn ngành và liên thông với các hệ thống ngoài Bộ Tư pháp.
Thứ hai, tập trung hoàn thiện các nền tảng số dùng chung của ngành Tư pháp; tạo môi trường làm việc số và không gian dữ liệu mở phục vụ toàn ngành.
Thứ ba, ứng dụng AI trong xây dựng, kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật; triển khai trợ lý ảo phục vụ quản lý, điều hành và hỗ trợ nghiệp vụ chuyên môn.
Thứ tư, tiếp tục triển khai các hệ thống phần mềm dùng chung như phòng họp không giấy, hệ thống văn bản điều hành điện tử tích hợp thiết bị di động, phần mềm nhận diện giọng nói và xử lý văn bản.
Thứ năm, thực hiện chuẩn hóa, số hóa quy trình nghiệp vụ, dịch vụ công trong toàn ngành, lấy trải nghiệm người dân làm tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện.
3.4. Nhiệm vụ và giải pháp
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế pháp lý phục vụ chuyển đổi số: (i) tập trung rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành các văn bản, đề án tạo hành lang pháp lý đầy đủ, thuận lợi cho ứng dụng CNTT, chuyển đổi số trong ngành Tư pháp[4]; (ii) cụ thể hóa các cơ chế đặc thù trong Nghị quyết số 66-NQ/TW và Nghị quyết số 197/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật, nhất là về ngân sách, nhân lực, phân cấp, phân quyền trong phê duyệt chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư các dự án ứng dụng CNTT, chuyển đổi số trong ngành Tư pháp; (iii) xây dựng các bộ quy chuẩn, tiêu chuẩn về an toàn thông tin, định danh, xác thực, dữ liệu mở trong ngành Tư pháp.
Thứ hai, đầu tư, phát triển hạ tầng số và nền tảng số ngành Tư pháp: (i) nâng cấp toàn diện Trung tâm dữ liệu điện tử của Bộ Tư pháp, tăng cường khả năng lưu trữ, xử lý, bảo mật dữ liệu; (ii) xây dựng nền tảng điều hành tác nghiệp nội bộ, nền tảng kết nối liên thông các hệ thống phần mềm tại Bộ và địa phương; (iii) triển khai Cổng dữ liệu và tiếp tục cung cấp các bộ dữ liệu mở có chất lượng và giá trị khai thác cao, mở dữ liệu theo quy định của pháp luật để phục vụ chuyển đổi số toàn diện. Hướng dẫn, đôn đốc các đơn vị khai thác, sử dụng hiệu quả việc kết nối, liên thông dữ liệu.
Thứ ba, phát triển, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành: (i) triển khai đồng bộ các dự án cơ sở dữ liệu ngành Tư pháp giai đoạn 2026 - 2030, như cơ sở dữ liệu: pháp luật Việt Nam, bổ trợ tư pháp, thi hành án dân sự, xử lý vi phạm hành chính; (ii) bảo đảm tính mở, liên thông, chuẩn hóa và khai thác hiệu quả các cơ sở dữ liệu này phục vụ công tác quản lý, xây dựng chính sách và phục vụ người dân.
Thứ tư, tăng cường cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình: (i) thực hiện số hóa toàn bộ quy trình thủ tục hành chính; đồng thời, tích hợp sâu với hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đăng ký kinh doanh, bảo hiểm xã hội...; (ii) nâng cấp Cổng dịch vụ công của Bộ, ứng dụng AI để hỗ trợ người dùng thực hiện thủ tục hành chính trực tuyến.
Thứ năm, bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng: (i) tăng cường năng lực giám sát an toàn thông tin, phân loại cấp độ an toàn thông tin cho các hệ thống CNTT của Bộ theo quy định; (ii) vận hành thường xuyên Đội ứng cứu sự cố mạng Bộ Tư pháp, tập huấn kịch bản ứng phó sự cố an ninh mạng theo tình huống thực tế; (iii) đầu tư giải pháp mã hóa, bảo vệ dữ liệu quan trọng và cá nhân hóa truy cập thông tin theo phân quyền, phân cấp.
Thứ sáu, phát triển nhân lực, nâng cao nhận thức và thúc đẩy đổi mới tư duy số: (i) tổ chức các chương trình bồi dưỡng chuyên sâu cho cán bộ kỹ thuật và bồi dưỡng cơ bản về kỹ năng số cho toàn thể công chức, viên chức; (ii) xây dựng chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao về CNTT làm việc tại Bộ, đặc biệt, ở các vị trí quản trị dữ liệu, an toàn thông tin, phát triển phần mềm; (iii) đẩy mạnh truyền thông nội bộ, lan tỏa tinh thần đổi mới sáng tạo, thúc đẩy chuyển đổi nhận thức toàn ngành từ “làm thủ công” sang “tư duy số”./.
Cục Công nghệ thông tin, Bộ Tư pháp
[1]. Đặc biệt, một số văn bản định hướng, tạo hành lang pháp lý quan trọng như: Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Nghị quyết số 52-NQ/TW); Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030 (Nghị quyết số 76/NQ-CP); Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết số 57-NQ/TW); Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06); các quyết định Chiến lược chuyển đổi số ngành Tư pháp đến năm 2030; Kế hoạch “Chuyển đổi số Ngành Tư pháp đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”…
[2]. Kế hoạch ứng dụng CNTT, phát triển Chính phủ số và bảo đảm an toàn thông tin mạng năm 2021 (ban hành kèm theo Quyết định số 2668/QĐ-BTP ngày 31/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp); Kế hoạch ứng dụng CNTT, phát triển Chính phủ số và bảo đảm an toàn thông tin mạng giai đoạn 2021- 2025 (ban hành kèm theo Quyết định số Quyết định số 682/QĐ-BTP ngày 07/5/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp); Kế hoạch phát triển Chính phủ số và bảo đảm an toàn thông tin mạng năm 2022 (ban hành kèm theo Quyết định số 2000/QĐ-BTP ngày 31/12/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp).
[3]. Như Nghị quyết số 52-NQ/TW, Nghị quyết số 76/NQ-CP, Nghị quyết số 57-NQ/TW, Nghị quyết số 66-NQ/TW...
[4]. Nghị quyết của Ban Thường vụ Đảng ủy về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số giai đoạn 2026 - 2030: xây dựng Kiến trúc Chính phủ số Bộ Tư pháp phiên bản 4.0; xây dựng Đề án ứng dụng CNTT, chuyển đổi số Bộ Tư pháp giai đoạn 2026 - 2030; xây dựng Đề án ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong công tác xây dựng, kiểm tra và rà soát văn bản quy phạm pháp luật.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật ấn phẩm đặc biệt “Ngành Tư pháp - Tự hào truyền thống, vững bước tương lai”)