Thứ bảy 22/11/2025 14:12
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thời điểm mở thừa kế của người bị tuyên bố chết theo quy định Bộ luật Dân sự

Bài viết về những hạn chế, bất cập trong thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về việc xác định thời điểm mở thừa kế trong trường hợp người để lại di sản thừa kế bị tuyên bố chết theo quyết định của Tòa án.

1. Thời điểm mở thừa kế

Theo nghĩa chung nhất, thừa kế được hiểu là sự dịch chuyển tài sản của người đã mất sang cho người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Trong đó, thời điểm mở thừa kế là căn cứ để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan, đồng thời là căn cứ để giải quyết tranh chấp về thừa kế nếu có.

Theo Từ điển Luật học, "Thời điểm mở thừa kế là thời điểm bắt đầu phát sinh quan hệ thừa kế"; "thời điểm mở thừa kế là thời điểm để xác định những người thừa kế: Người còn sống vào thời điểm mở thừa kế, người đã thành thai vào thời điểm mở thừa kế và sinh ra còn sống, người thừa kế là cơ quan, tổ chức phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế"; "thời điểm mở thừa kế là thời điểm xác định di sản thừa kế của người chết để lại, là thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện về thừa kế. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế"[1].

Với các khái niệm nêu trên, tác giả cho rằng, khái niệm thời điểm mở thừa kế được đưa ra trong Từ điển Luật học chỉ mang tính liệt kê dựa trên những đặc điểm, tính chất và ý nghĩa của thời điểm mở thừa kế quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 và chưa đưa ra được khái niệm khái quát mang tính định nghĩa. Tại Bộ luật Dân sự năm 2015, khái niệm thời điểm mở thừa kế được quy định tại khoản 1 Điều 611. Theo đó, "Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này". Như vậy, việc xác định thời điểm mở thừa kế của một người chính là xác định thời điểm chết của người đó. Đối với những trường hợp Tòa án tuyên bố chết, việc xác định thời điểm chết được dẫn chiếu về khoản 2 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015 và lại tiếp tục dẫn chiếu về khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015. Trên cơ sở đó, khái niệm về thời điểm mở thừa kế được khái quát như sau: "Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người để lại di sản thừa kế chết, đối với trường hợp Tòa án tuyên bố chết thì thời điểm mở thừa kế là thời điểm chết theo tuyên bố của Tòa án".

Thời điểm mở thừa kế có ý nghĩa quan trọng, bởi đó là thời điểm làm phát sinh mọi vấn đề về thừa kế như xác định di sản thừa kế, người thừa kế, thời hiệu yêu cầu chia thừa kế… Đối với trường hợp "người để lại di sản thừa kế chết" thì việc xác định thời điểm mở thừa kế khá rõ ràng. Tuy nhiên, đối với trường hợp một người Tòa án tuyên bố chết thì việc xác định thời điểm mở thừa kế còn nhiều điểm chưa phù hợp, chưa rõ ràng dẫn đến quyền lợi của những người thừa kế chưa được bảo đảm.

2. Quy định của pháp luật về thời điểm mở thừa kế của người bị tuyên bố chết và những vướng mắc, bất cập

Tại khoản 1 Điều 611 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: "…Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này". Theo khoản 2 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015, "căn cứ vào các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết". Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: "Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp sau đây:

a) Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;

b) Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;

c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

d) Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này".

Trên thực tế, việc xác định thời điểm mở thừa kế hay thời điểm chết của một người Tòa án tuyên bố chết đang có nhiều cách hiểu khác nhau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, Tòa án xác định thời điểm chết của người bị tuyên bố chết theo hai trường hợp: (i) Trường hợp thứ nhất, trong quá trình giải quyết vụ việc yêu cầu tuyên bố chết, nếu Tòa án có đủ căn cứ xác định thời điểm chết của người bị tuyên bố chết như ngày bị tai nạn (ví dụ: Máy bay rơi, tàu chìm…); ngày thảm họa, thiên tai kết thúc (ví dụ: Động đất, lũ lụt, đại dịch, hỏa hoạn...) thì Tòa án xác định ngày chết của họ là những ngày kể trên; (ii) Trường hợp thứ hai, trong quá trình giải quyết vụ việc yêu cầu tuyên bố chết, nếu Tòa án không có đủ căn cứ để xác định thời điểm chết của người bị tuyên bố chết thì ngày chết của họ là ngày quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Quan điểm thứ hai cho rằng, căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015, ngày chết của người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết được Tòa án xác định là ngày kế tiếp của ngày kết thúc thời hạn trong từng trường hợp nêu tại khoản 1 Điều 71. Cụ thể, là ngày kế tiếp của ngày kết thúc thời hạn 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật đối với trường hợp tuyên bố chết theo điểm a khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015; là ngày kế tiếp của ngày kết thúc thời hạn 05 năm biệt tích, kể từ ngày chiến tranh kết thúc đối với các trường hợp tuyên bố chết theo điểm b khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015; là ngày kế tiếp của ngày kết thúc thời hạn 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai chấm dứt đối với trường hợp tuyên bố chết theo điểm c khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015; là ngày kế tiếp của ngày kết thúc thời hạn 05 năm liền biệt tích đối với trường hợp tuyên bố chết theo điểm d khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015. Việc xác định ngày, tháng, năm dựa theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Theo tác giả, cả hai quan điểm trên đều có những điểm phù hợp nhưng cũng có điểm chưa phù hợp. Với quan điểm thứ nhất, trường hợp thứ nhất, nếu có căn cứ rõ ràng để xác định thời điểm chết của người bị tuyên bố chết, Tòa án xác định ngày chết của họ là những ngày này là điểm phù hợp, nhưng đối với trường hợp không có căn cứ rõ ràng về thời điểm chết mà ngày chết của họ được xác định là ngày quyết định tuyên bố chết của Tòa án có hiệu lực pháp luật lại chưa phù hợp. Thời điểm quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật là thời điểm mang tính tố tụng, phụ thuộc vào nhiều yếu tố và mỗi vụ việc cụ thể khác nhau, quyết định của Tòa án sẽ có hiệu lực pháp luật vào thời điểm khác nhau, vì vậy có thể dẫn tới tình trạng những người có cùng thời điểm mất tích, biệt tích nhưng lại có thời điểm chết khác nhau. Ví dụ: Năm 2015, A và B đều bỏ đi khỏi nhà và không có tin tức gì. Năm 2021, theo yêu cầu của gia đình A, Tòa án tuyên bố A chết và quyết định tuyên bố A chết có hiệu lực pháp luật năm 2021 nhưng đến năm 2025 gia đình B mới yêu cầu Tòa án tuyên bố B đã chết và quyết định tuyên bố B chết có hiệu lực năm 2025. Như vậy, A và B có cùng thời điểm bắt đầu mất tích là năm 2015 nhưng ngày chết của A và B lại hoàn toàn khác nhau là chưa phù hợp. Hoặc trường hợp là A bỏ đi biệt tích từ năm 2015 và không có tin tức gì, nếu năm 2021 gia đình A yêu cầu tuyên bố chết đối với A thì thời điểm chết của A được xác định là năm 2021 - thời điểm quyết định tuyên bố A chết có hiệu lực pháp luật, nếu đến năm 2025 gia đình A mới yêu cầu tuyên bố chết đối với A thì thời điểm chết của A lại là năm 2025. Như vậy, A bỏ đi từ năm 2015 và không có tin tức gì nhưng thời điểm chết lại khác nhau do thời điểm yêu cầu tuyên bố chết khác nhau là chưa hợp lý.

Đối với quan điểm thứ hai, các trường hợp bị tuyên bố chết theo quy định tại điểm c, điểm d khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015, việc xác định thời điểm chết là ngày kế tiếp của ngày kết thúc các thời hạn là phù hợp, bởi, đây là những trường hợp không có đủ căn cứ để xác định thời điểm chết của họ nên khi giải quyết yêu cầu tuyên bố chết cần căn cứ vào thời hạn đủ điều kiện để tuyên bố họ mất tích hoặc tuyên bố chết. Tuy nhiên, đối với trường hợp tại điểm a khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015, việc xác định thời điểm chết cần phải căn cứ vào thời hạn tính từ ngày họ biệt tích, trường hợp này cần xác định ngày chết của họ là ngày kế tiếp của thời hạn 05 năm tính từ ngày họ biệt tích, không nên tính 03 năm kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật, do ngày quyết định tuyên bố mất tích là ngày của thời hạn tố tụng nên sẽ có sự khác nhau tùy vào từng vụ việc, nếu căn cứ vào thời điểm này sẽ dẫn tới nhiều thời điểm chết khác nhau khi có cùng thời điểm bắt đầu là ngày biệt tích. Ví dụ: Ngày 01/01/2010, M đi khỏi nhà và không có tin tức gì. Năm 2012, gia đình M yêu cầu tuyên bố mất tích đối với M và ngày 30/3/2012 quyết định tuyên bố M mất tích có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp này, nếu sau 03 năm gia đình M có yêu cầu tuyên bố chết đối với M thì Tòa án sẽ xác định ngày chết của M là ngày 01/4/2015. Tuy nhiên, nếu năm 2014 gia đình M mới yêu cầu tuyên bố mất tích đối với M và sau 03 năm tiếp tục yêu cầu tuyên bố chết đối với M thì Tòa án sẽ xác định thời điểm chết của M là năm 2017. Việc xác định như vậy là chưa phù hợp, vì sự kiện M biệt tích là không thay đổi nhưng kết quả cuối cùng xác định thời điểm chết của M lại khác nhau dẫn đến thời điểm mở thừa kế khác nhau. Tuy nhiên, nếu căn cứ thời điểm M bắt đầu biệt tích là ngày 01/01/2010, dù gia đình M có yêu cầu thời điểm nào và Tòa án giải quyết nhanh hay chậm thì thời điểm chết của M vẫn được xác định là ngày 02/01/2015.

Ngày 10/9/2024, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn số 163/TANDTC-PC về việc giải đáp một số vướng mắc trong xét xử, trong đó có hướng dẫn về xác định ngày chết của người bị tuyên bố chết. Theo Công văn này, khi giải quyết yêu cầu tuyên bố chết đối với một người thuộc trường hợp biệt tích 05 năm liền theo điểm d khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì ngày chết là ngày đầu tiên sau khi kết thúc thời hạn 05 năm kể từ ngày có tin tức cuối cùng. Việc tính thời hạn 05 năm được thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự như sau: Nếu biết được ngày có tin tức cuối cùng về người đó, ngày chết được xác định là ngày đầu tiên kế tiếp của ngày kết thúc thời hạn 05 năm kể từ ngày có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng, thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng, thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng. Tuy nhiên, Công văn này lại chỉ hướng dẫn cho trường hợp tuyên bố chết theo điểm d khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015. Như vậy, đối với trường hợp có đủ căn cứ xác định rõ ràng ngày chết của họ mà vẫn xác định thời điểm chết là ngày đầu tiên kế tiếp của ngày kết thúc thời hạn 02 năm kể từ ngày tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai chấm dứt là chưa hợp lý.

3. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về xác định thời điểm mở thừa kế của người bị Tòa án tuyên bố chết

Việc xác định thời điểm mở thừa kế của người bị tuyên bố chết đóng vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật thừa kế, tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 chưa có hướng dẫn cụ thể về việc xác định thời điểm mở thừa kế hay thời điểm chết của người Tòa án tuyên bố chết. Vì vậy, thực tế có nhiều cách hiểu và cách áp dụng khác nhau làm ảnh hưởng tới quyền lợi của các chủ thể. Để có sự thống nhất trong cách áp dụng pháp luật nhằm bảo đảm quyền lợi của những người thừa kế cũng như giải quyết hiệu quả các tranh chấp có thể phát sinh, cơ quan lập pháp cần có hướng dẫn cụ thể nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên liên quan. Mặt khác, để việc xác định thời điểm chết của người Tòa án tuyên bố là đã chết có tính thống nhất, ổn định và không bị thay đổi bởi quá trình tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc thời điểm yêu cầu của người yêu cầu, cần quy định rõ theo 02 trường hợp: (i) Trong quá trình giải quyết vụ việc yêu cầu tuyên bố chết, Tòa án có đủ căn cứ xác định rõ ràng thời điểm chết thì thời điểm chết được xác định chính là thời điểm này; (ii) Trong quá trình giải quyết vụ việc yêu cầu tuyên bố chết, Tòa án không có đủ căn cứ xác định rõ ràng thời điểm chết thì thời điểm chết được xác định là thời điểm đủ 05 năm kể từ ngày họ biệt tích hoặc ngày chiến tranh kết thúc.

Luật sư. TS. Lê Thị Diệp

Giảng viên Trường Đại học Đại Nam


  1. Bộ Tư pháp, Từ điển Luật học (2006), Nxb. Từ điển Bách khoa - Nxb. Tư pháp, tr. 717.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thực hiện công tác bồi thường nhà nước trong bối cảnh tổ chức chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện công tác bồi thường nhà nước trong bối cảnh tổ chức chính quyền địa phương hai cấp

Từ ngày 01/7/2025, chính quyền địa phương ở Việt Nam được tổ chức theo mô hình 02 cấp: Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (cấp tỉnh) và xã, phường, đặc khu trực thuộc cấp tỉnh (cấp xã).
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ pháp luật cho các tổ chức, cá nhân khu vực phía Nam

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ pháp luật cho các tổ chức, cá nhân khu vực phía Nam

Đối với khu vực phía Nam - nơi tập trung đông dân cư, nhiều trung tâm kinh tế trọng điểm và có sự đa dạng về điều kiện kinh tế - xã hội đang đối mặt với thách thức không nhỏ trong việc nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật và kỹ năng, nghiệp vụ pháp luật cho các tổ chức, cá nhân. Đây không chỉ là nhiệm vụ của hệ thống chính trị mà còn là trách nhiệm xã hội của các cơ sở đào tạo pháp luật trong cả nước, trong đó có Trường Cao đẳng Luật miền Nam (sau đây gọi là Trường) - với vai trò là cơ sở đào tạo pháp luật thuộc Bộ Tư pháp xác định sứ mệnh đồng hành cùng địa phương, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật tại chỗ thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, chuyên môn, nghiệp vụ pháp luật.
Công tác đào tạo cao đẳng, trung cấp pháp luật; bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp cho các tổ chức, cá nhân khu vực miền Trung - Tây Nguyên - Kết quả và định hướng

Công tác đào tạo cao đẳng, trung cấp pháp luật; bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp cho các tổ chức, cá nhân khu vực miền Trung - Tây Nguyên - Kết quả và định hướng

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là nhiệm vụ “then chốt”, trong đó, giáo dục nghề nghiệp giữ vai trò quan trọng trong đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, các nghị định hướng dẫn thi hành và các văn bản pháp luật có liên quan đã tạo hành lang pháp lý cho đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo nghề, trong đó có ngành Luật. Nhiều nghị quyết của Bộ Chính trị nhấn mạnh, cần đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp luật có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn để nâng cao hiệu quả quản lý và thực thi pháp luật. Miền Trung - Tây Nguyên là khu vực rộng lớn, đa dạng về văn hóa - xã hội, với nhiều địa bàn đặc thù như vùng cao, vùng biên giới, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Đây cũng là những nơi chịu nhiều tác động tiêu cực từ điều kiện kinh tế, thiên tai, hạ tầng giáo dục và pháp lý chưa đồng đều. Trong bối cảnh đó, việc tăng cường công tác đào tạo pháp luật và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ cơ sở, người dân và các đối tượng chuyên môn tại khu vực này không chỉ là nhiệm vụ chuyên môn, mà còn thể hiện trách nhiệm xã hội sâu sắc của ngành Tư pháp, góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo bền vững và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa từ cơ sở
Trường Đại học Luật Hà Nội - Trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật cho ngành Tư pháp và đất nước

Trường Đại học Luật Hà Nội - Trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật cho ngành Tư pháp và đất nước

Kể từ khi thành lập (ngày 10/11/1979) đến nay, được sự tin tưởng của Đảng và Nhà nước, Trường Đại học Luật Hà Nội tự hào là một trong những cơ sở đào tạo và nghiên cứu pháp luật hàng đầu của Việt Nam và tiếp tục được Chính phủ xác định là trường trọng điểm đào tạo cán bộ pháp luật theo Quyết định số 1156/QĐ-TTg ngày 30/9/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án tổng thể “Tiếp tục xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật”.
Đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Học viện Tư pháp là cơ sở đào tạo nghề luật đầu tiên trực thuộc Bộ Tư pháp và cũng là trung tâm lớn nhất đào tạo chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp của đất nước, trải qua 27 năm, hoạt động đào tạo các chức danh tư pháp và bổ trợ tư pháp của Học viện Tư pháp đã đạt được những thành tựu quan trọng, đóng góp nhiều vào sự phát triển nguồn nhân lực tư pháp của đất nước, Bộ, ngành Tư pháp và xã hội.
Văn phòng Bộ Tư pháp: Tự hào truyền thống - Đổi mới phát triển

Văn phòng Bộ Tư pháp: Tự hào truyền thống - Đổi mới phát triển

Văn phòng Bộ Tư pháp (sau đây gọi tắt là Văn phòng) - đơn vị có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và quản lý các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, tổng hợp, theo dõi, đôn đốc các đơn vị thuộc Bộ thực hiện chương trình, kế hoạch công tác của Bộ đã được phê duyệt; tham mưu, điều phối, thực hiện công tác truyền thông đối với hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và quản lý báo chí, xuất bản; tổ chức thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính, kiểm soát thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính, công tác hành chính, văn thư, lưu trữ, bảo vệ bí mật nhà nước, quản trị, tài chính, bảo vệ, quân sự, y tế của cơ quan Bộ theo quy định của pháp luật. Văn phòng được giao nhiệm vụ tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Văn phòng chính là “cầu nối” giữa Lãnh đạo Bộ và các đơn vị thuộc Bộ, góp phần bảo đảm sự vận hành thông suốt, hiệu quả trong toàn ngành Tư pháp.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý - Kết quả đạt được và một số định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý - Kết quả đạt được và một số định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bài viết về kết quả đạt được của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới.
Công tác đăng ký biện pháp bảo đảm và bồi thường nhà nước - Thành tựu đạt được và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Công tác đăng ký biện pháp bảo đảm và bồi thường nhà nước - Thành tựu đạt được và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Bài viết về thành tựu đạt được của công tác đăng ký biện pháp bảo đảm, bồi thường nhà nước và định hướng phát triển trong giai đoạn mới.
Kết quả thực hiện trợ giúp pháp lý trong ngành Kiểm sát nhân dân

Kết quả thực hiện trợ giúp pháp lý trong ngành Kiểm sát nhân dân

Thực hiện Chiến lược phát triển và mục tiêu đổi mới công tác trợ giúp pháp lý, trong những năm qua, ngành Kiểm sát nhân dân luôn tích cực, trách nhiệm hoàn thành tốt nhiệm vụ, đạt được những kết quả đáng ghi nhận.
Trợ giúp viên pháp lý Hà Nội với thách thức mới từ cải cách hành chính và công nghệ số

Trợ giúp viên pháp lý Hà Nội với thách thức mới từ cải cách hành chính và công nghệ số

Bài viết về một số khó khăn và đề xuất giải pháp để phát huy vai trò của trợ giúp viên pháp lý tại thành phố Hà Nội trong bối cảnh tổ chức lại chính quyền địa phương hai cấp và đẩy mạnh chuyển đổi số.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý

Đây là quy định mới theo Nghị định số 121/2025/NĐ-CP ngày 11/6/2025 của Chính phủ quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, áp dụng từ ngày 01/7/2025 đến hết ngày 28/02/2025.
Nâng cao hiệu quả công tác cải cách thể chế trên địa bàn tỉnh Lai Châu

Nâng cao hiệu quả công tác cải cách thể chế trên địa bàn tỉnh Lai Châu

Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu là cơ quan tham mưu giúp Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật, theo dõi tình hình thi hành pháp luật, kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật. Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm góp phần hoàn thiện và cải cách thể chế trên địa bàn tỉnh.
Những vấn đề cần giải quyết khi chuyển đổi số trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật Việt Nam hiện nay

Những vấn đề cần giải quyết khi chuyển đổi số trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật Việt Nam hiện nay

Chuyển đổi số là xu thế tất yếu để đổi mới phương thức phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), nâng cao nhận thức và khả năng tiếp cận pháp luật cho người dân, doanh nghiệp. Bài viết phân tích thực trạng PBGDPL tại Việt Nam, đồng thời tiếp cận các mô hình chuyển đổi số tiên tiến trên thế giới, từ đó đưa ra giải pháp và khuyến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động PBGDPL trong nước theo hướng hiện đại và bền vững.

Bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người nhiễm vi rút gây hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người

Bài viết nghiên cứu những quy định của pháp luật về bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của người nhiễm HIV, kết quả cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý cho người nhiễm HIV thời gian qua, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người nhiễm HIV thời gian tới.

Nhiều giải pháp nâng cao chất lượng công tác thi hành án dân sự trong “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”

Trong năm 2024, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức khi khối lượng công việc ngày càng nhiều, tính chất ngày càng phức tạp, yêu cầu đối với công tác thi hành án dân sự ngày càng cao, biên chế được giao giảm, số việc và số tiền thụ lý mới tiếp tục tăng, nhưng với sự chỉ đạo quyết liệt, sát sao của Chính phủ, sự nỗ lực, quyết tâm của toàn hệ thống thi hành án dân sự, đến nay, kết quả thi hành xong về việc, về tiền đều đạt và vượt chỉ tiêu được giao.

Theo dõi chúng tôi trên: