
1. Thời điểm mở thừa kế
Theo nghĩa chung nhất, thừa kế được hiểu là sự dịch chuyển tài sản của người đã mất sang cho người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Trong đó, thời điểm mở thừa kế là căn cứ để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan, đồng thời là căn cứ để giải quyết tranh chấp về thừa kế nếu có.
Theo Từ điển Luật học, "Thời điểm mở thừa kế là thời điểm bắt đầu phát sinh quan hệ thừa kế"; "thời điểm mở thừa kế là thời điểm để xác định những người thừa kế: Người còn sống vào thời điểm mở thừa kế, người đã thành thai vào thời điểm mở thừa kế và sinh ra còn sống, người thừa kế là cơ quan, tổ chức phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế"; "thời điểm mở thừa kế là thời điểm xác định di sản thừa kế của người chết để lại, là thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện về thừa kế. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế"[1].
Với các khái niệm nêu trên, tác giả cho rằng, khái niệm thời điểm mở thừa kế được đưa ra trong Từ điển Luật học chỉ mang tính liệt kê dựa trên những đặc điểm, tính chất và ý nghĩa của thời điểm mở thừa kế quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 và chưa đưa ra được khái niệm khái quát mang tính định nghĩa. Tại Bộ luật Dân sự năm 2015, khái niệm thời điểm mở thừa kế được quy định tại khoản 1 Điều 611. Theo đó, "Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này". Như vậy, việc xác định thời điểm mở thừa kế của một người chính là xác định thời điểm chết của người đó. Đối với những trường hợp Tòa án tuyên bố chết, việc xác định thời điểm chết được dẫn chiếu về khoản 2 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015 và lại tiếp tục dẫn chiếu về khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015. Trên cơ sở đó, khái niệm về thời điểm mở thừa kế được khái quát như sau: "Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người để lại di sản thừa kế chết, đối với trường hợp Tòa án tuyên bố chết thì thời điểm mở thừa kế là thời điểm chết theo tuyên bố của Tòa án".
Thời điểm mở thừa kế có ý nghĩa quan trọng, bởi đó là thời điểm làm phát sinh mọi vấn đề về thừa kế như xác định di sản thừa kế, người thừa kế, thời hiệu yêu cầu chia thừa kế… Đối với trường hợp "người để lại di sản thừa kế chết" thì việc xác định thời điểm mở thừa kế khá rõ ràng. Tuy nhiên, đối với trường hợp một người Tòa án tuyên bố chết thì việc xác định thời điểm mở thừa kế còn nhiều điểm chưa phù hợp, chưa rõ ràng dẫn đến quyền lợi của những người thừa kế chưa được bảo đảm.
2. Quy định của pháp luật về thời điểm mở thừa kế của người bị tuyên bố chết và những vướng mắc, bất cập
Tại khoản 1 Điều 611 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: "…Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này". Theo khoản 2 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015, "căn cứ vào các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết". Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: "Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp sau đây:
a) Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
b) Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
d) Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này".
Trên thực tế, việc xác định thời điểm mở thừa kế hay thời điểm chết của một người Tòa án tuyên bố chết đang có nhiều cách hiểu khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, Tòa án xác định thời điểm chết của người bị tuyên bố chết theo hai trường hợp: (i) Trường hợp thứ nhất, trong quá trình giải quyết vụ việc yêu cầu tuyên bố chết, nếu Tòa án có đủ căn cứ xác định thời điểm chết của người bị tuyên bố chết như ngày bị tai nạn (ví dụ: Máy bay rơi, tàu chìm…); ngày thảm họa, thiên tai kết thúc (ví dụ: Động đất, lũ lụt, đại dịch, hỏa hoạn...) thì Tòa án xác định ngày chết của họ là những ngày kể trên; (ii) Trường hợp thứ hai, trong quá trình giải quyết vụ việc yêu cầu tuyên bố chết, nếu Tòa án không có đủ căn cứ để xác định thời điểm chết của người bị tuyên bố chết thì ngày chết của họ là ngày quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Quan điểm thứ hai cho rằng, căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015, ngày chết của người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết được Tòa án xác định là ngày kế tiếp của ngày kết thúc thời hạn trong từng trường hợp nêu tại khoản 1 Điều 71. Cụ thể, là ngày kế tiếp của ngày kết thúc thời hạn 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật đối với trường hợp tuyên bố chết theo điểm a khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015; là ngày kế tiếp của ngày kết thúc thời hạn 05 năm biệt tích, kể từ ngày chiến tranh kết thúc đối với các trường hợp tuyên bố chết theo điểm b khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015; là ngày kế tiếp của ngày kết thúc thời hạn 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai chấm dứt đối với trường hợp tuyên bố chết theo điểm c khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015; là ngày kế tiếp của ngày kết thúc thời hạn 05 năm liền biệt tích đối với trường hợp tuyên bố chết theo điểm d khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015. Việc xác định ngày, tháng, năm dựa theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Theo tác giả, cả hai quan điểm trên đều có những điểm phù hợp nhưng cũng có điểm chưa phù hợp. Với quan điểm thứ nhất, trường hợp thứ nhất, nếu có căn cứ rõ ràng để xác định thời điểm chết của người bị tuyên bố chết, Tòa án xác định ngày chết của họ là những ngày này là điểm phù hợp, nhưng đối với trường hợp không có căn cứ rõ ràng về thời điểm chết mà ngày chết của họ được xác định là ngày quyết định tuyên bố chết của Tòa án có hiệu lực pháp luật lại chưa phù hợp. Thời điểm quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật là thời điểm mang tính tố tụng, phụ thuộc vào nhiều yếu tố và mỗi vụ việc cụ thể khác nhau, quyết định của Tòa án sẽ có hiệu lực pháp luật vào thời điểm khác nhau, vì vậy có thể dẫn tới tình trạng những người có cùng thời điểm mất tích, biệt tích nhưng lại có thời điểm chết khác nhau. Ví dụ: Năm 2015, A và B đều bỏ đi khỏi nhà và không có tin tức gì. Năm 2021, theo yêu cầu của gia đình A, Tòa án tuyên bố A chết và quyết định tuyên bố A chết có hiệu lực pháp luật năm 2021 nhưng đến năm 2025 gia đình B mới yêu cầu Tòa án tuyên bố B đã chết và quyết định tuyên bố B chết có hiệu lực năm 2025. Như vậy, A và B có cùng thời điểm bắt đầu mất tích là năm 2015 nhưng ngày chết của A và B lại hoàn toàn khác nhau là chưa phù hợp. Hoặc trường hợp là A bỏ đi biệt tích từ năm 2015 và không có tin tức gì, nếu năm 2021 gia đình A yêu cầu tuyên bố chết đối với A thì thời điểm chết của A được xác định là năm 2021 - thời điểm quyết định tuyên bố A chết có hiệu lực pháp luật, nếu đến năm 2025 gia đình A mới yêu cầu tuyên bố chết đối với A thì thời điểm chết của A lại là năm 2025. Như vậy, A bỏ đi từ năm 2015 và không có tin tức gì nhưng thời điểm chết lại khác nhau do thời điểm yêu cầu tuyên bố chết khác nhau là chưa hợp lý.
Đối với quan điểm thứ hai, các trường hợp bị tuyên bố chết theo quy định tại điểm c, điểm d khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015, việc xác định thời điểm chết là ngày kế tiếp của ngày kết thúc các thời hạn là phù hợp, bởi, đây là những trường hợp không có đủ căn cứ để xác định thời điểm chết của họ nên khi giải quyết yêu cầu tuyên bố chết cần căn cứ vào thời hạn đủ điều kiện để tuyên bố họ mất tích hoặc tuyên bố chết. Tuy nhiên, đối với trường hợp tại điểm a khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015, việc xác định thời điểm chết cần phải căn cứ vào thời hạn tính từ ngày họ biệt tích, trường hợp này cần xác định ngày chết của họ là ngày kế tiếp của thời hạn 05 năm tính từ ngày họ biệt tích, không nên tính 03 năm kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật, do ngày quyết định tuyên bố mất tích là ngày của thời hạn tố tụng nên sẽ có sự khác nhau tùy vào từng vụ việc, nếu căn cứ vào thời điểm này sẽ dẫn tới nhiều thời điểm chết khác nhau khi có cùng thời điểm bắt đầu là ngày biệt tích. Ví dụ: Ngày 01/01/2010, M đi khỏi nhà và không có tin tức gì. Năm 2012, gia đình M yêu cầu tuyên bố mất tích đối với M và ngày 30/3/2012 quyết định tuyên bố M mất tích có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp này, nếu sau 03 năm gia đình M có yêu cầu tuyên bố chết đối với M thì Tòa án sẽ xác định ngày chết của M là ngày 01/4/2015. Tuy nhiên, nếu năm 2014 gia đình M mới yêu cầu tuyên bố mất tích đối với M và sau 03 năm tiếp tục yêu cầu tuyên bố chết đối với M thì Tòa án sẽ xác định thời điểm chết của M là năm 2017. Việc xác định như vậy là chưa phù hợp, vì sự kiện M biệt tích là không thay đổi nhưng kết quả cuối cùng xác định thời điểm chết của M lại khác nhau dẫn đến thời điểm mở thừa kế khác nhau. Tuy nhiên, nếu căn cứ thời điểm M bắt đầu biệt tích là ngày 01/01/2010, dù gia đình M có yêu cầu thời điểm nào và Tòa án giải quyết nhanh hay chậm thì thời điểm chết của M vẫn được xác định là ngày 02/01/2015.
Ngày 10/9/2024, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn số 163/TANDTC-PC về việc giải đáp một số vướng mắc trong xét xử, trong đó có hướng dẫn về xác định ngày chết của người bị tuyên bố chết. Theo Công văn này, khi giải quyết yêu cầu tuyên bố chết đối với một người thuộc trường hợp biệt tích 05 năm liền theo điểm d khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì ngày chết là ngày đầu tiên sau khi kết thúc thời hạn 05 năm kể từ ngày có tin tức cuối cùng. Việc tính thời hạn 05 năm được thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự như sau: Nếu biết được ngày có tin tức cuối cùng về người đó, ngày chết được xác định là ngày đầu tiên kế tiếp của ngày kết thúc thời hạn 05 năm kể từ ngày có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng, thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng, thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng. Tuy nhiên, Công văn này lại chỉ hướng dẫn cho trường hợp tuyên bố chết theo điểm d khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015. Như vậy, đối với trường hợp có đủ căn cứ xác định rõ ràng ngày chết của họ mà vẫn xác định thời điểm chết là ngày đầu tiên kế tiếp của ngày kết thúc thời hạn 02 năm kể từ ngày tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai chấm dứt là chưa hợp lý.
3. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về xác định thời điểm mở thừa kế của người bị Tòa án tuyên bố chết
Việc xác định thời điểm mở thừa kế của người bị tuyên bố chết đóng vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật thừa kế, tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 chưa có hướng dẫn cụ thể về việc xác định thời điểm mở thừa kế hay thời điểm chết của người Tòa án tuyên bố chết. Vì vậy, thực tế có nhiều cách hiểu và cách áp dụng khác nhau làm ảnh hưởng tới quyền lợi của các chủ thể. Để có sự thống nhất trong cách áp dụng pháp luật nhằm bảo đảm quyền lợi của những người thừa kế cũng như giải quyết hiệu quả các tranh chấp có thể phát sinh, cơ quan lập pháp cần có hướng dẫn cụ thể nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên liên quan. Mặt khác, để việc xác định thời điểm chết của người Tòa án tuyên bố là đã chết có tính thống nhất, ổn định và không bị thay đổi bởi quá trình tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc thời điểm yêu cầu của người yêu cầu, cần quy định rõ theo 02 trường hợp: (i) Trong quá trình giải quyết vụ việc yêu cầu tuyên bố chết, Tòa án có đủ căn cứ xác định rõ ràng thời điểm chết thì thời điểm chết được xác định chính là thời điểm này; (ii) Trong quá trình giải quyết vụ việc yêu cầu tuyên bố chết, Tòa án không có đủ căn cứ xác định rõ ràng thời điểm chết thì thời điểm chết được xác định là thời điểm đủ 05 năm kể từ ngày họ biệt tích hoặc ngày chiến tranh kết thúc.
Luật sư. TS. Lê Thị Diệp
Giảng viên Trường Đại học Đại Nam
Bộ Tư pháp, Từ điển Luật học (2006), Nxb. Từ điển Bách khoa - Nxb. Tư pháp, tr. 717.