
Đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý
Thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý là quá trình xem xét, nhận xét, kết luận về nội dung, hình thức, quy trình thực hiện và kết quả của vụ việc trợ giúp pháp lý nhằm bảo đảm hoạt động trợ giúp pháp lý được thực hiện đúng quy định của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý.
Theo Điều 40 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2027 quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, trong bối cảnh sắp xếp thực hiện chính quyền địa phương 02 cấp, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước ở địa phương, phát huy tính chủ động, sáng tạo của chính quyền địa phương, đồng thời bảo đảm sự quản lý thống nhất, thông suốt của trung ương, ngày 11/6/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP), theo đó, việc tổ chức thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý được quy định tại điểm e khoản 1 Điều 40 của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (theo Điều 26 Nghị định số 121/2025/NĐ-CP), áp dụng từ ngày 01/7/2025 đến hết ngày 28/02/2025.
Theo Thông tư số 09/2025/TT-BTP ngày 16/6/2025 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thuộc Ủy ban nhân dân xã, phường, đặc khu trong lĩnh vực tư pháp, Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố sẽ giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định pháp luật.
Theo đó, Sở Tư pháp có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố thực hiện quản lý và tổ chức đánh giá chất lượng vụ việc tham gia tố tụng, vụ việc đại diện ngoài tố tụng, hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng để xác định vụ việc trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng thành công của các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý trong phạm vi toàn quốc.
Sở Tư pháp có trách nhiệm quản lý và tổ chức đánh giá chất lượng vụ việc tham gia tố tụng, chất lượng vụ việc đại diện ngoài tố tụng, đánh giá hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng để xác định vụ việc trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng thành công của các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý trong phạm vi địa phương.
Có thể mời các trợ giúp viên pháp lý, luật sư có kinh nghiệm, chuyên gia pháp luật tham gia đánh giá hoặc tư vấn đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý phức tạp
Việc thẩm định, đánh giá chất lượng, hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý được quy định cụ thể tại: Thông tư số 12/2018/TT-BTP ngày 28/8/2018 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn một số hoạt động nghiệp vụ trợ giúp pháp lý và quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, có hiệu lực kể từ ngày 12/10/2018; Thông tư số 03/2021/TT-BTP ngày 25/5/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 08/2017/TT-BTP ngày 15/11/2017 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý và hướng dẫn giấy tờ trong hoạt động trợ giúp pháp lý; Thông tư số 12/2018/TT-BTP ngày 28/8/2018 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn một số hoạt động nghiệp vụ trợ giúp pháp lý và quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, có hiệu lực kể từ ngày 15/7/2021; Thông tư số 09/2022/TT-BTP ngày 30/12/2022 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp bãi bỏ một số nội dung tại các thông tư trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý, hộ tịch do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2023.
Để thuận tiện trong quá trình triển khai, áp dụng, ngày 03/02/2023, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Văn bản hợp nhất thông tư hướng dẫn một số hoạt động nghiệp vụ trợ giúp pháp lý và quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý số 302/VBHN-BTP hướng dẫn một số hoạt động nghiệp vụ trợ giúp pháp lý và quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý của Bộ Tư pháp.
Theo đó, việc đánh giá chất lượng, hiệu quả vụ việc dựa trên một trong các căn cứ: (i) Theo chương trình, kế hoạch đánh giá chất lượng, hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý; (ii) Vụ việc đã được tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý thẩm định chất lượng, đánh giá hiệu quả bị phản ánh, kiến nghị với Sở Tư pháp vì cho rằng vụ việc trợ giúp pháp lý chưa bảo đảm chất lượng, hiệu quả; (iii) Các vụ việc khác để phục vụ công tác quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý tại địa phương.
Việc đánh giá chất lượng, hiệu quả vụ việc dựa trên một trong các căn cứ: (i) Theo chương trình, kế hoạch đánh giá chất lượng, hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý; (ii) Vụ việc đã được tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý thẩm định chất lượng, đánh giá hiệu quả bị phản ánh, kiến nghị với Sở Tư pháp vì cho rằng vụ việc trợ giúp pháp lý chưa bảo đảm; (iii) Các vụ việc khác để phục vụ công tác quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý tại địa phương.
Kế hoạch đánh giá chất lượng, trong đó xác định rõ phạm vi; tỷ lệ vụ việc, bảo đảm người thực hiện trợ giúp pháp lý có vụ việc được đánh giá; cách thức tiến hành đánh giá và các điều kiện cần thiết khác (nếu có) để thực hiện đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý. Kết quả đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý được thể hiện bằng văn bản.
Khi thực hiện đánh giá chất lượng các vụ việc, cơ quan có thẩm quyền đánh giá có thể mời các trợ giúp viên pháp lý, luật sư có kinh nghiệm, chuyên gia pháp luật tham gia đánh giá hoặc tư vấn đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý phức tạp. Người được mời tham gia phải có ý kiến bằng văn bản đối với vụ việc được yêu cầu đánh giá.
Căn cứ vào yêu cầu thực tiễn của công tác quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý, Sở Tư pháp xây dựng kế hoạch đánh giá hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng để xác định vụ việc trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng thành công, trong đó xác định phạm vi; tỷ lệ vụ việc; cách thức tiến hành đánh giá, xác định và các điều kiện cần thiết khác (nếu có).
Việc thẩm định chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý được dựa trên các tiêu chí và cơ cấu điểm sau đây:
(i) Tiêu chí về trách nhiệm nghề nghiệp của người thực hiện trợ giúp pháp lý (30 điểm): Tuân thủ pháp luật, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan (10 điểm); giải thích, hướng dẫn, cung cấp thông tin kịp thời về vụ việc cho người được trợ giúp pháp lý (10 điểm); bảo đảm thời gian, tiến độ thực hiện vụ việc (10 điểm).
(ii) Tiêu chí về thực hiện trợ giúp pháp lý (60 điểm): Thực hiện trợ giúp pháp lý phù hợp với yêu cầu trợ giúp pháp lý và phạm vi được phân công (05 điểm); thu thập các thông tin, tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ việc (10 điểm); nghiên cứu và áp dụng đầy đủ các quy định pháp luật có liên quan để bảo đảm nội dung trợ giúp pháp lý đúng và phù hợp với pháp luật (20 điểm); tham gia các hoạt động tố tụng hoặc tham gia các hoạt động đại diện ngoài tố tụng để kịp thời có giải pháp bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý (20 điểm); quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý được thể hiện đầy đủ trong hồ sơ vụ việc trợ giúp pháp lý (05 điểm).
(iii) Tiêu chí về sự hài lòng của người được trợ giúp pháp lý trên cơ sở ý kiến phản hồi của người được trợ giúp pháp lý hoặc người thân thích (10 điểm).
Kết quả đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý được phân loại theo các mức: (i) Vụ việc chất lượng tốt, là vụ việc có tổng số điểm đạt từ 90 điểm trở lên; (ii) Vụ việc chất lượng khá, là vụ việc có tổng số điểm đạt từ 70 đến dưới 90 điểm; (iii) Vụ việc đạt chất lượng, là vụ việc có tổng số điểm đạt từ 50 đến dưới 70 điểm; (iv) Vụ việc không đạt chất lượng, là vụ việc có tổng số điểm đạt dưới 50 điểm hoặc vụ việc mà người thực hiện trợ giúp pháp lý hoặc tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý vi phạm điều cấm quy định tại khoản 1 Điều 6 của Luật Trợ giúp pháp lý.
Kết quả đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý là cơ sở để nâng cao chất lượng đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý và hiệu quả hoạt động của tổ chức trợ giúp pháp lý.