![]() |
Theo thống kê, tính đến ngày 15/4/2025, cả nước có 2,06 triệu người cao tuổi hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng; 1,2 triệu người cao tuổi hưởng trợ cấp người có công với cách mạng; 2,7 triệu người cao tuổi đang hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trong đó, số người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên đang hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm hàng tháng là 464 nghìn người. Đến nay, 05 tỉnh, thành phố đã nâng mức chuẩn trợ giúp xã hội cao hơn mức Chính phủ quy định, 32 tỉnh, thành phố mở rộng đối tượng là người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn, sống cô đơn được hưởng chính sách trợ giúp xã hội theo đối tượng đặc thù của địa phương[1].
Từ ngày 01/7/2025, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 chính thức có hiệu lực thi hành, theo đó, chế độ trợ cấp hưu trí xã hội được áp dụng cho những người từ đủ 75 tuổi trở lên không hưởng lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng; người từ đủ 70 tuổi đến dưới 75 tuổi thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo không hưởng lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng nhằm giúp người cao tuổi có điều kiện sống tốt hơn trong bối cảnh già hóa dân số. Trên cơ sở đó, ngày 30/6/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 176/2025/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về trợ cấp hưu trí (Nghị định số 176/2025/NĐ-CP) với một số nội dung nổi bật sau :
Thứ nhất, công dân Việt Nam được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội phải là người từ đủ 75 tuổi trở lên.
Thực hiện chủ trương “điều chỉnh giảm dần độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội phù hợp với khả năng của ngân sách”, đồng thời phấn đấu đạt mục tiêu đến năm 2030 “khoảng 60% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội” tại Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội, trên cơ sở quy định chi tiết khoản 1 và khoản 4 Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024, đối tượng và điều kiện hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội (Điều 2 Nghị định số 176/2025/NĐ-CP) bao gồm:
(i) Công dân Việt Nam từ đủ 75 tuổi trở lên; không hưởng lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng, trừ trường hợp đang hưởng lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng thấp hơn mức trợ cấp hưu trí theo quy định của pháp luật và có văn bản đề nghị hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
(ii) Công dân Việt Nam từ đủ 70 tuổi đến dưới 75 tuổi thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo theo quy định của Chính phủ và không hưởng lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng, trừ trường hợp đang hưởng lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng thấp hơn mức trợ cấp hưu trí theo quy định của pháp luật và có văn bản đề nghị hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
Thứ hai, nâng mức hưởng trợ cấp hưu trí lên 500.000 đồng/tháng.
Theo Báo cáo số 147/BC-LĐTBXH ngày 09/10/2023 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ) đánh giá tác động bổ sung về nguồn ngân sách nhà nước và Quỹ Bảo hiểm xã hội kèm theo hồ sơ dự án Luật Bảo hiểm xã hội trình Quốc hội đã dự kiến 02 phương án về mức trợ cấp hưu trí xã hội là 360.000 đồng/tháng (bằng mức chuẩn trợ giúp xã hội quy định tại Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội (Nghị định số 20/2021/NĐ-CP)) và 500.000 đồng/tháng (dự kiến nâng mức chuẩn trợ giúp xã hội theo lộ trình cải cách tiền lương). Ngoài ra, ngày 01/7/2024, Chính phủ ban hành Nghị định số 76/2024/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 20/2021/NĐ-CP đã nâng mức chuẩn trợ giúp xã hội từ 360.000 đồng/tháng lên 500.000 đồng/tháng. Trên cơ sở đó, để bảo đảm tính đồng bộ, đồng nhất về chế độ, chính sách chung đối với người cao tuổi, Nghị định đã quy định mức trợ cấp hưu trí xã hội là 500.000 đồng/tháng (Điều 3 Nghị định số 176/2025/NĐ-CP).
Thứ ba, đối tượng hưởng trợ cấp hưu trí xã hội phải có văn bản đề nghị hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
Thực hiện bộ máy chính quyền địa phương 02 cấp theo Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/4/2025 Hội nghị lần thứ 11 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII và Nghị quyết số 66/NQ-CP ngày 26/3/2025 của Chính phủ phê duyệt Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2025 và 2026, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, phường, đặc khu trực thuộc tỉnh, thành phố sẽ có thẩm quyền xem xét, quyết định trợ cấp và thực hiện chi trả chính sách. Theo đó, việc đề nghị trợ cấp hưu trí xã hội được thực hiện như sau (Điều 4 Nghị định số 176/2025/NĐ-CP):
(i) Người đề nghị trợ cấp hưu trí xã hội có văn bản đề nghị hưởng trợ cấp hưu trí xã hội gửi trực tiếp hoặc qua tổ chức bưu chính hoặc trên môi trường mạng đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, đặc khu trực thuộc tỉnh, thành phố nơi cư trú. Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị hưởng trợ cấp hưu trí xã hội, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức xem xét, thực hiện xác thực và chuẩn hóa thông tin liên quan của người đề nghị trợ cấp hưu trí xã hội với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, quyết định và thực hiện chi trả trợ cấp hưu trí xã hội cho người đề nghị theo quy định pháp luật. Thời gian hưởng chế độ trợ cấp hưu trí xã hội hằng tháng tính từ tháng Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký quyết định. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã trả lời bằng văn bản đối với các trường hợp người đề nghị không đủ điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí xã hội và nêu rõ lý do.
(ii) Trường hợp đối tượng đang hưởng trợ cấp hưu trí xã hội thay đổi nơi cư trú đề nghị được nhận chế độ trợ cấp hưu trí xã hội ở nơi cư trú mới, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú cũ quyết định thôi chi trả trợ cấp hưu trí xã hội tại địa bàn và có văn bản gửi kèm theo giấy tờ có liên quan của người đề nghị đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú mới của người đề nghị. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú mới căn cứ giấy tờ liên quan của người đề nghị, xem xét quyết định tiếp tục trợ cấp hưu trí xã hội và thực hiện chi trả trợ cấp hưu trí xã hội từ tháng thôi chi trả tại nơi cư trú cũ.
(iii) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định thôi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội đối với trường hợp đối tượng đang hưởng trợ cấp hưu trí xã hội bị chết hoặc không còn đủ điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí xã hội. Thời gian thôi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội từ tháng sau liền kề tháng đối tượng chết hoặc không đủ điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
Thứ tư, tổ chức, cá nhân lo mai táng cho đối tượng đang hưởng trợ cấp hưu trí xã hội hằng tháng được nhận hỗ trợ chi phí mai táng.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 22 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024, “người đang hưởng trợ cấp hưu trí xã hội hằng tháng được ngân sách nhà nước đóng bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế, khi chết thì tổ chức, cá nhân lo mai táng được nhận hỗ trợ chi phí mai táng theo quy định của pháp luật về người cao tuổi.” Tuy nhiên, Luật Người cao tuổi năm 2009 và các văn bản hướng thi hành chưa có quy định về mức hỗ trợ chi phí mai táng, thủ tục hỗ trợ mai táng phí, do vậy, để bảo đảm việc thực hiện quy định tại khoản 3 Điều 22 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024, Điều 5 Nghị định số 176/2025/NĐ-CP quy định:
(i) Đối tượng đang hưởng trợ cấp hưu trí xã hội hoặc người đã có văn bản đề nghị hưởng trợ cấp hưu trí xã hội đủ điều kiện hưởng nhưng Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã chưa ban hành quyết định hưởng trợ cấp hưu trí xã hội khi chết thì được hỗ trợ chi phí mai táng tối thiểu bằng 20 lần mức chuẩn trợ giúp xã hội là 360.000 đồng/tháng.
(ii) Trường hợp đối tượng được hỗ trợ chi phí mai táng, mai táng phí quy định tại nhiều văn bản khác nhau với các mức khác nhau thì chỉ được hưởng một mức cao nhất.
Trên cơ sở đó, trình tự thực hiện hỗ trợ chi phí mai táng được quy định như sau: Tổ chức, cá nhân lo mai táng cho đối tượng có Tờ khai đề nghị hỗ trợ chi phí mai táng gửi trực tiếp hoặc qua tổ chức bưu chính hoặc trên môi trường mạng đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, quyết định hỗ trợ chi phí mai táng.
Tham khảo: Dự thảo Tờ trình dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về trợ cấp hưu trí xã hội.
Ảnh: Duy Hoàng