1. Trợ giúp pháp lý cho các đối tượng yếu thế và hiệu quả đạt được
Nhóm những người dễ bị tổn thương như người khuyết tật; trẻ em; người nhiễm HIV; người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo; người thuộc hộ nghèo; nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân của hành vi mua bán người và người dưới 18 tuổi đi cùng theo quy định của Luật Phòng chống mua bán người… đã được ghi nhận trong nhiều văn bản quốc tế[1] và trong nước[2].
Hoạt động TGPL cho nhóm yếu thế hiện nay chủ yếu được thực hiện theo hai kênh: (i) Trợ giúp pháp lý nhà nước do Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước chủ trì và các luật sư cộng tác viên tham gia; (ii) TGPL do Đoàn Luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, cá nhân luật sư thực hiện trên cơ sở tự nguyện, hoặc theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, theo hợp đồng… Trong đó, luật sư đóng vai trò nòng cốt trong cả hai hình thức, đặc biệt với các nhóm yếu thế sau:
Một là, người nghèo và người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Luật sư thực hiện TGPL cho người nghèo thông qua nhiều hình thức: (i) Tư vấn trực tiếp tại tổ chức hành nghề luật sư; (ii) Tổ chức tuyên truyền pháp luật tại cơ sở; (iii) Tham gia tố tụng miễn phí trong các vụ án hình sự, dân sự, lao động, hành chính. Ngoài ra, việc TGPL còn được luật sư thực hiện theo các chuyên đề, chương trình cụ thể của địa phương hoặc những nội dung, vấn đề đang được xã hội quan tâm có ảnh hưởng trực tiếp đến đối tượng này. Từ thực tiễn hoạt động nghề nghiệp của luật sư đã thực hiện TGPL cho người dân nghèo được hỗ trợ pháp lý kịp thời, giảm thiểu các tranh chấp, khiếu kiện phức tạp. Nhiều vụ việc được giải quyết mà quyền lợi của các bên được bảo đảm với sự đồng thuận, hợp tình, hợp lý đã góp phần củng cố niềm tin của người nghèo với chính sách của Đảng và Nhà nước.
Hai là, phụ nữ, đặc biệt là nạn nhân bạo lực gia đình và xâm hại. Đối với phụ nữ, công tác TGPL tập trung vào các lĩnh vực hôn nhân và gia đình, phòng, chống bạo lực, bảo vệ quyền lợi trong quan hệ lao động và dân sự. Luật sư không chỉ hỗ trợ về pháp lý mà còn phối hợp với các tổ chức xã hội, trung tâm bảo trợ, cơ quan bảo vệ pháp luật để bảo đảm quyền lợi toàn diện cho phụ nữ bị tổn thương. Nhiều vụ việc bạo lực gia đình được can thiệp kịp thời: phụ nữ được tư vấn, hỗ trợ an toàn ở “Ngôi nhà bình yên” những nơi tạm lánh cho phụ nữ và trẻ em bị bạo hành, bảo vệ quyền nuôi con và tài sản.
Ba là, trẻ em - nhóm cần được bảo vệ đặc biệt. Luật sư TGPL cho trẻ em thường tham gia trong các vụ án xâm hại, bạo hành, hoặc tranh chấp quyền nuôi dưỡng. Cách thức triển khai: (i) Bào chữa hoặc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của trẻ với phương pháp thân thiện, tôn trọng tâm lý lứa tuổi; (ii) Kết nối với cơ quan bảo vệ trẻ em, tổ chức xã hội và trường học; (iii) Tuyên truyền, tư vấn pháp luật học đường. Trẻ em được bảo vệ tốt hơn trong các thủ tục tố tụng; hạn chế tình trạng bức cung, ép cung; giúp trẻ tái hòa nhập cộng đồng và phục hồi tâm lý. Đây là kết quả thiết thực thể hiện sự nhân văn của hoạt động TGPL.
Bốn là, người khuyết tật và người cao tuổi. Đặc thù của người khuyết tật và người cao tuổi là khó tiếp cận thông tin, đặc biệt là một số ứng dụng công nghệ số hoặc di chuyển. Khi luật sư TGPL đã áp dụng nhiều hình thức để phù hợp với từng trường hợp cụ thể như tư vấn lưu động tới tận nơi sinh sống (người khuyết tật vận động), sử dụng ngôn ngữ ký hiệu (người khuyết tật âm thanh) hay tài liệu in chữ lớn (người lớn tuổi bị hạn chế đi lại). Nhiều vụ việc liên quan đến trợ cấp xã hội, bảo hiểm, thừa kế, hoặc quyền sử dụng đất đã được giải quyết hiệu quả. Việc thực hiện TGPL đã giúp người khuyết tật và người cao tuổi được bảo đảm quyền bình đẳng trong tiếp cận pháp luật, nhận cung cấp dịch vụ pháp lý một cách dễ dàng.
Năm là, người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng sâu - vùng xa. TGPL ở những nơi vùng sâu - vùng xa đã được các luật sư của Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội và các tổ chức hành nghề luật sư thực hiện thường xuyên thông qua việc phối hợp với chính quyền địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể. Hình thức tổ chức TGPL lưu động tới những địa phương nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số cư trú, hay tới địa phương nơi có những vấn đề nóng như bồi thường, giải phóng mặt bằng… Các nội dung tập trung vào lĩnh vực đất đai, hôn nhân, hành chính - những vấn đề nhạy cảm, dễ phát sinh tranh chấp.
![]() |
![]() |
| Các luật sư và cán bộ Cục A03 - Bộ Công an cùng tuyên truyền pháp luật cho Nhân dân tại Pò Hèn - Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh (theo tên địa danh cũ). |
Về tuyên truyền, các luật sư áp dụng đa dạng với những câu chuyện, câu đố vui thu hút sự tham gia của đông đảo đồng bào. Từ đó, nhận thức pháp luật trong đồng bào dân tộc thiểu số được nâng cao; nhiều tranh chấp được hòa giải, góp phần giữ gìn đoàn kết cộng đồng và ổn định an ninh trật tự ở cơ sở.
Sáu là, người bị buộc tội thuộc diện được TGPL. Bào chữa cho người bị buộc tội với tư cách tham gia tố tụng là bị can, bị cáo trong các vụ án hình sự được các luật sư thực hiện thường xuyên trong hoạt động hành nghề. Từ những người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội[3], hay trường hợp từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi như trường hợp của bị cáo Nguyễn Phương Trang khi phạm tội chưa đủ 15 tuổi đang ở độ tuổi còn non nớt, nhận thức chưa tới và bị người trưởng thành sử dụng, lôi kéo, sử dụng lao động trái pháp luật[4], hay người bị buộc tội thuộc trường hợp chỉ định người bào chữa theo quy định[5] được cơ quan tiến hành tố tụng ghi nhận và đánh giá cao. Luật sư TGPL tham gia tố tụng từ giai đoạn điều tra, truy tố hoặc xét xử để thu thập chứng cứ, bào chữa và hoạt động điều tra. Trong nhiều vụ án hình sự, sự tham gia của luật sư đã giúp bào chữa cho bị cáo, nâng cao chất lượng tranh tụng và bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự.
![]() |
| Các bị cáo bị xét xử trong vụ án buôn lậu. |
2. Những khó khăn, hạn chế trong công tác trợ giúp pháp lý của luật sư
Thứ nhất, cơ chế, chính sách tài chính về mức thù lao, chi phí chi trả cho luật sư TGPL chưa tương xứng với yêu cầu nghề nghiệp.
Đối với luật sư áp dụng Thông tư liên tịch số 191/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 12/1/2014 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp hướng dẫn về thù lao và thanh toán chi phí cho luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng; đối với trợ giúp viên pháp lý áp dụng Thông tư số 02/2021/TT-BTP ngày 25/5/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn cách tính thời gian theo buổi làm việc thực tế và khoán chi vụ việc trợ giúp pháp lý. Theo đó:
(i) Cách tính thời gian làm việc: Có thể thấy, cùng thực hiện công việc TGPL nhưng của luật sư có phần thiệt hơn so với TGVPL. Đối với luật sư, tính theo ngày làm việc thì “01 ngày làm việc” bằng “08 giờ làm việc” (khoản 1 Điều 2 Thông tư liên tịch số 191/2014/TTLT-BTC-BTP). Trong khi đó, đối với trợ giúp viên pháp lý thì tính theo buổi làm việc: “01 buổi làm việc” bằng “½ ngày làm việc” và “bằng 04 giờ” (Điều 3 Thông tư số 02/2021/TT-BTP).
(ii) Thời gian làm việc: Trường hợp bị can, bị cáo tại ngoại thì thời gian luật sư gặp bị can, bị cáo không được tính là thời gian làm việc; trường hợp luật sư gặp gỡ người bị hại, người làm chứng để phục vụ việc bào chữa cho bị can, bị cáo cũng không được tính là thời gian làm việc được thanh toán thù lao (khoản 2 Điều 2 Thông tư liên tịch số 191/2014/TTLT-BTC-BTP. Trong khi đó, trợ giúp viên pháp lý được tính thời gian gặp gỡ, tiếp xúc với người được TGPL tại ngoại, thân nhân của họ và cả trường hợp làm việc với những người tham gia tố tụng khác (khoản 1 Điều 4 Thông tư số 02/2021/TT-BTP).
(iii) Thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án: Hiện nay, các luật sư chỉ được sao chụp hồ sơ tại cơ quan tiến hành tố tụng (thời gian này được tính là thời gian làm việc được thanh toán thù lao). Tuy nhiên, thời gian luật sư nghiên cứu hồ sơ chủ yếu tại văn phòng/tại nhà lại không được chi trả thù lao. Trong khi đó, thời gian tính thù lao của trợ giúp viên pháp lý còn được tính cả thời gian chuẩn bị luận cứ bào chữa, bảo vệ.
(iv) Trường hợp hoãn phiên tòa: Trường hợp hoãn phiên tòa thì thời gian làm việc của luật sư chỉ được tính bằng ½ ngày làm việc của luật sư. Trong khi đó, trợ giúp viên pháp lý được tính theo thực tế trợ giúp viên pháp lý làm việc với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng về nội dung liên quan đến hoãn phiên tòa.
(v) Mức thù lao chi trả: Đối với luật sư, 01 ngày làm việc bằng 0,4 lần mức lương cơ sở (khoản 1 Điều 2 Thông tư liên tịch số 191/2014/TTLT-BTC-BTP). Trong khi đó, trợ giúp viên pháp lý, ngoài các chế độ lương, phụ cấp, khi tham gia vụ việc tố tụng được hưởng thêm thù lao, bồi dưỡng (khoản 3 Điều 13 Nghị định số 144/2017NĐ-CP ngày 15/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý).
Thứ hai, khó khăn trong thực tiễn hành nghề.
Nhận thức của người dân về quyền được TGPL còn hạn chế. Chưa chủ động tìm đến dịch vụ pháp lý của luật sư khi gặp khó khăn hoặc vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, vụ việc TGPL ngày càng phức tạp, người được TGPL thường thiếu hiểu biết pháp luật, từ chối dịch vụ pháp lý của luật sư khi được cơ quan tiến hành tố tụng giới thiệu. Đồng thời, áp lực công việc và kỳ vọng xã hội khiến nhiều luật sư TGPL gặp khó khăn; còn tồn tại trường hợp do áp lực công việc mà luật sư chưa làm hết trách nhiệm hoặc còn hình thức.
Thứ ba, khó khăn, hạn chế về nguồn lực và tổ chức thực hiện.
Thiếu nhân lực TGPL tại vùng sâu, vùng xa. Số lượng luật sư ở một số tỉnh còn ít, thành viên chưa đến 15 người. Ví dụ như có Đoàn Luật sư chỉ có 04 thành viên thì phần lớn là tuổi đã cao, sức khỏe hạn chế, đi lại quãng đường dài khó khăn.
Bên cạnh đó, thiếu hỗ trợ chuyên môn cho các vụ việc đặc thù. Ví dụ, TGPL cho người khiếm thính, khiếm thị hoặc khuyết tật vận động… hay bào chữa cho người bị buộc tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử khác làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong tiếp nhận, xử lý và quản lý vụ việc TGPL còn chậm (chưa có tổng đài hoặc số điện thoại đường dây nóng để tư vấn, hỗ trợ). Trong 08 tháng đầu năm 2025 đã phát hiện gần 1.500 vụ việc lừa đảo qua mạng, gây thiệt hại hơn 1.660 tỷ đồng. Đáng chú ý, sự gia tăng của bắt cóc trực tuyến nhắm vào học sinh, sinh viên, nhóm người trẻ, am hiểu công nghệ nhưng lại thiếu kỹ năng nhận diện rủi ro[6].
Thứ tư, tồn tại một số hạn chế như: Hệ thống pháp luật TGPL cho người yếu thế đang trong quá trình hoàn thiện; một số cơ quan tiến hành tố tụng chưa coi trọng vai trò của luật sư TGPL; công tác đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng cho các luật sư chuyên làm TGPL chưa nhiều. Công tác khen thưởng, động viên, tôn vinh luật sư TGPL tiêu biểu chưa được chú trọng.
3. Kiến nghị nâng cao hiệu quả trợ giúp pháp lý
3.1. Hoàn thiện thể chế và cơ chế tài chính để thống nhất giữa luật sư và trợ giúp viên pháp lý
Tính thời gian làm việc theo ngày làm việc thực tế, không cộng dồn tổng số giờ làm việc. Tính thời gian làm việc cho luật sư trong trường hợp luật sư gặp bị can, bị cáo tại ngoại; trường hợp luật sư cần phải gặp người làm chứng, người bị hại, … để phục vụ việc bào chữa cho bị can, bị cáo. Ngoài thời gian sao chụp hồ sơ tại cơ quan tiến hành tố tụng, tính thời gian nghiên cứu hồ sơ của luật sư, chuẩn bị luận cứ để chuẩn bị tham gia phiên tòa, có thể xây dựng cơ chế khoán vụ việc/vụ án hoặc quy định cứng về thời gian nghiên cứu từ 01 - 03 ngày làm việc. Trường hợp hoãn phiên tòa thì thời gian làm việc của luật sư được tính theo thực tế luật sư làm việc với cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Các hoạt động của luật sư tham gia làm việc theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng mà thời gian làm việc ngoài giờ hành chính, ngày nghỉ, ngày lễ thì đều được tính theo nguyên tắc chi trả tiền lương làm việc ban đêm, làm thêm giờ. Tăng ngân sách nhà nước dành cho công tác TGPL cho nhóm người yếu thế và cơ chế khuyến khích xã hội hóa.
3.2. Đẩy mạnh công tác khen thưởng, tôn vinh những luật sư có đóng góp cho công tác trợ giúp pháp lý
Tôn vinh, khen thưởng định kỳ cho luật sư và tổ chức TGPL tiêu biểu; xây dựng bộ tiêu chí đánh giá chất lượng TGPL dựa trên hiệu quả thực tế và sự hài lòng của người được TGPL làm cơ sở cho việc khen thưởng, tôn vinh đóng góp của các luật sư; phát động các chương trình/phong trào thi đua trong công tác TGPL tới các Đoàn Luật sư, tổ chức hành nghề luật sư và rộng rãi trên các cổng thông tin của cơ quan, tổ chức.
3.3. Tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ và chuyên môn hóa
Bồi dưỡng kỹ năng TGPL chuyên biệt cho từng nhóm đối tượng yếu thế cụ thể, như nhóm dễ bị tổn thương, nhóm khuyết tật vận động, người chưa thành niên… Xây dựng mạng lưới luật sư TGPL có nghiệp vụ chuyên sâu, thiết lập cơ chế chia sẻ dữ liệu, kinh nghiệm trong công tác TGPL cho đối tượng yếu thế.
3.4. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số
Thiết lập Cổng thông tin điện tử TGPL và ứng dụng di động về TGPL; ứng dụng trí tuệ nhân tạo để phân loại, theo dõi tiến độ và đánh giá vụ việc TGPL trong đó có luật sư.
3.5. Nâng cao nhận thức xã hội
Đẩy mạnh truyền thông về quyền được TGPL một cách rộng rãi bằng nhiều hình thức và cách làm cụ thể. Ví dụ, xây dựng chiến dịch “Không một mình - luật sư đồng hành” tới nhóm đối tượng là người chưa thành niên trong Chiến dịch “Không một mình” chống dụ dỗ, bắt cóc online.
Nâng cao nhận thức về trách nhiệm của xã hội đối với người yếu thế. Khơi dậy trách nhiệm xã hội để mỗi người dân hiểu rằng “bảo vệ người yếu thế cũng chính là bảo vệ sự công bằng và tiến bộ của xã hội”. Tổ chức chiến dịch truyền thông để lan tỏa thông điệp “Trợ giúp pháp lý – quyền của người yếu thế, trách nhiệm của toàn xã hội”, hay phát động “Tháng hành động vì người yếu thế” hằng năm.
Trong bối cảnh đất nước đang vươn mình và cải cách tư pháp toàn diện thì việc hoàn thiện thể chế, cơ chế và chính sách đối với công tác TGPL cho người yếu thế là điều kiện tiên quyết giúp cho người yếu thế dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, đều có quyền được tiếp cận và sử dụng dịch vụ pháp lý từ luật sư./.
[1] Xem thêm Điều 10 Công ước quốc tế các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) 1966 và các điều 2, 19, 23, 24 Công ước về quyền trẻ em (CRC) 1989…
[2] Xem thêm Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 53/2024/QH15 và Luật số 59/2024/QH15; Điều 2 Luật Phòng thủ dân sự năm 2023…
[3] Xem thêm: Điểm a khoản 6 Điều 177 Luật Tư pháp người chưa thành niên năm 2024.
[4] Xem thêm: Quyết định bất ngờ trong phiên xét xử nhóm “gí bill” cướp tài sản, https://vietnamnet.vn/quyet-dinh-bat-ngo-trong-phien-toa-xet-xu-nhom-gi-bill-cuop-tai-san-2144311.html?gidzl=9bn6HqZqL28fIqv3IUfG92nBJKPKwb8XDXqO4rNf1YPW7Hr01xjJ9c9F6aG4lLDsC1bFH3HMaIjMGVnL9G.
[5] Xem thêm: Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2025.
[6] Tham khảo: https://vtv.vn/video/bat-coc-online-canh-bao-nhieu-nhung-van-sap-bay-108679682.htm.