1. Quan niệm về giám sát hoạt động tư pháp của Quốc hội hiện nay
Quyền tư pháp là một dạng quyền lực nhà nước, được minh định khi quyền lực nhà nước phân chia thành ba quyền độc lập với nhau, bổ trợ cho nhau và kiểm soát lẫn nhau. Đó là các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Là sản phẩm của các cuộc biển đổi thể chế mang tính dân chủ và cân bằng quyền lực, kiểm soát quyền lực cùng với việc xây dựng nhà nước pháp quyền.
Trong quá trình thực hiện dân chủ hóa xã hội tại Việt Nam, chúng ta không thừa nhận trực tiếp nguyên tắc tổ chức Nhà nước theo nguyên lý tam quyền phân lập, tuy nhiên, Nhà nước ta đã tiếp thu nhiều yếu tố, hạt nhân hợp lý của thuyết tam quyền. Đó là cách gọi tên các quyền và các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, coi trọng tính độc lập của hoạt động tư pháp, xác định Tòa án là mắt xích trọng tâm của hệ thống tư pháp cùng với cách phân biệt ngày càng rành mạch giữa các quyền này và phương hướng tăng cường kiểm soát quyền lực nói chung và kiểm soát giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp nói riêng[1]. Là một trong ba trụ cột của quyền lực nhà nước giám sát các hoạt động tư pháp, Quốc hội thực hiện việc giám sát tổ chức và thực hiện Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội đối với các đối tượng thuộc quyền giám sát tối cao[2]. Thông qua hoạt động này, giám sát của Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý. Giám sát tối cao được thực hiện tại kỳ họp Quốc hội (Điều 2 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015) nhằm đảm bảo cho quá trình áp dụng pháp luật trong việc tổ chức và thực hiện hoạt động thực tiễn của các cơ quan, cá nhân trong hoạt động tư pháp ở tầng cao nhất trong bộ máy nhà nước tuân thủ Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội trong việc giải quyết các công việc cụ thể thuộc thẩm quyền của mình.
Hiện nay, “giám sát của cơ quan quyền lực đối với hoạt động tư pháp” là một cụm thuật ngữ chưa được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động. Bản thân khái niệm “hoạt động tư pháp” cũng chứa đựng nhiều vấn đề còn đang tranh cãi. Có quan điểm cho rằng, khái niệm “hoạt động tư pháp” chỉ bao gồm hoạt động xét xử của Tòa án; có quan điểm cho rằng, “hoạt động tư pháp” bao gồm quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, bổ trợ tư pháp; quan điểm khác lại cho rằng, “hoạt động tư pháp” còn bao gồm cả việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật có liên quan trên lĩnh vực này.
Hiện nay, trên thực tiễn vẫn còn có quan điểm cho rằng, giám sát của cơ quan quyền lực cấp tỉnh đối với hoạt động tư pháp được hiểu là giám sát việc thực hiện các quy định pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án, bổ trợ tư pháp, tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp; Công an, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân... cùng cấp trong việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, bổ trợ tư pháp; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở địa phương liên quan đến lĩnh vực tư pháp; giám sát việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng[3].
Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, khái niệm “hoạt động tư pháp” chỉ bao gồm hoạt động xét xử của Tòa án. Như vậy, “giám sát hoạt động tư pháp của Quốc hội là hoạt động của cơ quan quyền lực, quyền hạn và nhiệm vụ của Quốc hội xem xét hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao nhằm theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao là đối tượng chịu sự giám sát nhằm đảm bảo việc thực hiện tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý nhằm đảm bảo hoạt động tư pháp thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.
2. Vai trò về sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học trong việc nâng cao chất lượng hoạt động giám sát tư pháp của Quốc hội hiện nay
Thứ nhất, hoạt động giám sát tư pháp của Quốc hội cần phải được tổ chức khoa học, có cơ sở pháp lý. Do đó, sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học có vai trò trong việc nâng cao chất lượng hoạt động giám sát tư pháp của Quốc hội. Để hoạt động giám sát đạt hiệu quả, Quốc hội cần phải hiểu rõ, hiểu sâu về nội dung giám sát, đối tượng giám sát, hình thức giám sát đối với cơ quan tư pháp... để từ đó tiến hành giám sát một cách hợp lý trên cơ sở những quy định pháp lý đặt ra. Chính vì vậy, cần có sự hỗ trợ, phối hợp của các cơ quan hỗ trợ và các chuyên gia, nhà khoa học hoạt động giám sát nhằm thực hiện tốt hơn nữa cơ chế pháp lý để các chuyên gia, nhà khoa học tổ chức tham gia vào các hình thức hỗ trợ hoạt động giám sát cũng là một vấn đề quan trọng đảm bảo hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội.
Thứ hai, chưa có sẵn mô hình tổ chức sát hoạt động tư pháp của Quốc hội trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nên đã gặp không ít khó khăn. Chính vì vậy, vai trò về sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học sẽ cung cấp những thông tin khoa học chính xác trong việc nâng cao chất lượng hoạt động giám sát tư pháp của Quốc hội, như những vấn đề mới đặt ra trong nhận thức về mô hình, về nguyên lý tổ chức, về khả năng vận dụng thực tế đòi hỏi phải có thời gian thử thách và có cách đánh giá khoa học[4].
Việc kiểm soát quyền tư pháp của cơ quan quyền lực nhà nước thông qua việc Quốc hội bầu Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định biên chế của Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân các cấp; quyết định số lượng kiểm sát viên, thẩm phán. Bên cạnh đó, hoạt động giám sát tư pháp được giao cho Quốc hội (giám sát tối cao); Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Ủy ban Tư pháp của Quốc hội bằng các hình thức như thẩm tra báo cáo công tác hàng năm và cả nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giám sát công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công tác thi hành án; giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân; chất vấn đối với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giám sát chuyên đề trong một hoặc một số lĩnh vực tư pháp cụ thể; giám sát việc chấp hành, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, thi hành án và bổ trợ tư pháp; giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp…[5]
Quan điểm trên xuất phát từ yêu cầu Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội có đi vào hoạt động tư pháp hay không, không chỉ thông qua hoạt động lập pháp đúng đắn, phù hợp và kịp thời của Quốc hội mà còn là ở tổ chức thực tiễn các hoạt động cụ thể thể hiện ở các quyết định cụ thể có hiệu lực và hiệu quả. Chính việc tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học trong việc nâng cao chất lượng hoạt động giám sát tư pháp của Quốc hội - mà nhà khoa học, chuyên gia pháp luật là những người kết hợp giữa kết quả nghiên cứu khoa học với việc thực hiện một cách linh hoạt sẽ tạo hiệu quả tốt, nhằm duy trì bản chất một Nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân thông qua cơ quan đại diện của dân là Quốc hội và phải được tiến hành đồng bộ với sự đổi mới từng bước của hệ thống chính trị nước ta.
Thứ ba, việc tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học góp phần nâng cao năng lực của các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Các chuyên gia, nhà khoa học là nhân tố quan trọng tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ trong việc thực hiện các chức năng của Quốc hội. Đúng như quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xuất phát từ việc sớm nhận thức được vai trò quan trọng của các nhà khoa học nên Người đã rất quan tâm và dành tình cảm đặc biệt cho đội ngũ trí thức nói chung và các nhà khoa học nói riêng. Bàn về nhiệm vụ của những người làm khoa học, Người nhấn mạnh: Các cô, các chú phải ra sức đem hiểu biết khoa học, kỹ thuật của mình truyền bá rộng rãi trong nhân dân lao động, để nhân dân đẩy mạnh thi đua sản xuất nhiều, nhanh, tốt, rẻ. Có như vậy, nước mới giàu, dân mới mạnh và đời sống của nhân dân mới được cải thiện về mọi mặt[6]. Vì vậy, cần cải thiện vị thế, tạo điều kiện và động lực giám sát cho Quốc hội, tạo mối liên hệ mật thiết phát huy đến mức cao nhất mọi nguồn lực, tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt là năng lực sáng tạo của đội ngũ các nhà khoa học, chuyên gia trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.
Trong thực tiễn, hiệu quả của hoạt động tư pháp thể hiện chủ yếu ở hoạt động xét xử của Tòa án. Trên thực tế, công tác xét xử vẫn còn xảy ra tình trạng một số bản án phải cải sửa, hoặc tính thuyết phục chưa cao, gây xôn xao dư luận. Nguyên nhân chính, ngoại trừ các yếu tố về tính công tâm, trách nhiệm, trình độ chuyên môn của đội ngũ thẩm phán, phải kể đến vai trò tham gia tố tụng của đội ngũ luật sư. Điều này được thể hiện, vẫn còn những lời bào chữa, tranh tụng của luật sư chưa thuyết phục, chưa sắc sảo, chỉ mang tính thủ tục, hình thức…[7]. Bởi vậy, cần tăng cường năng lực tham mưu tư vấn của các cơ quan tham mưu, cá nhân, chuyên gia trong các cơ quan nhà nước và xã hội để tạo cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn trong hoạt động giám sát tư pháp của Quốc hội. Năng lực cho đội ngũ tư vấn, phản biện chính sách của các nhà khoa học, chuyên gia chính là những “kênh thông tin khoa học”, “nhà giúp việc chính sách khách quan” giúp việc riêng cho Quốc hội sử dụng, là ý kiến chuyên gia nghiên cứu độc lập, đáng tin cậy nhất.
Đồng thời, nhà khoa học và chuyên gia còn thực hiện tiếp thu và truyền bá tri thức; sáng tạo các giá trị mới của tri thức; đề xuất, phản biện một cách độc lập các chủ trương, chính sách và biện pháp giải quyết các vấn đề của xã hội; dự báo phát triển và định hướng dư luận xã hội và tham gia gián tiếp, trực tiếp vào quá trình thực hiện việc giám sát của Quốc hội hiện nay.
Thứ tư, việc tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học góp phần nâng cao năng lực Quốc hội và đại biểu Quốc hội vào việc giám sát các hoạt động tư pháp cũng chính là tăng cường vai trò, chức năng của nhân dân vào việc thông tin các hoạt động giám sát tư pháp, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân đồng thời phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. Các vấn đề khi tiến hành giám sát tối cao trong hoạt động tư pháp được xem xét, cho ý kiến thông qua tại kỳ họp đã được các đại biểu Quốc hội thảo luận, tranh luận thẳng thắn, có trách nhiệm, trí tuệ, tâm huyết, thể hiện chính kiến rõ ràng và quyết định thông qua với tỷ lệ tán thành cao. Quốc hội phải đề xuất thêm kênh, nghiêm túc tiếp thu ý kiến của các tầng lớp nhân dân và cử tri, nhà khoa học, chuyên gia, sau khi cân nhắc nhiều mặt, thận trọng để nghiên cứu, hoàn thiện, bảo đảm chất lượng, tính khả thi của chất lượng giám sát. Thông qua đó, chất lượng hoạt động của hoạt động tư pháp được nâng lên đáng kể; tình trạng oan sai, sót lọt tội phạm, tình trạng xử lý thiếu nghiêm minh cơ bản được khắc phục; tình trạng lạm quyền, lộng quyền trong lĩnh vực tư pháp từng bước được kiềm chế…
3. Một số thành tựu và hạn chế trong việc tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giám sát tư pháp của Quốc hội
Về thành tựu, nhìn một cách tổng thể, sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học trong việc nâng cao chất lượng hoạt động giám sát tư pháp của Quốc hội đã được phát triển lớn mạnh và có những đóng góp to lớn trong việc nâng cao chất lượng, nhiều kết quả tích cực, luôn đổi mới theo hướng thiết thực, nâng cao hiệu lực, hiệu quả góp phần khẳng định vị trí, vai trò của Quốc hội. Với chính sách dân chủ trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước của Đảng và Nhà nước, đội ngũ trí thức đã tham gia đóng góp nhiều kênh khác nhau trong việc đề xuất, phản biện một cách độc lập các chủ trương, chính sách, biện pháp giải quyết các vấn đề của bất cập trong hoạt động tư pháp và dự báo phát triển, định hướng dư luận xã hội... ngày càng phong phú, cung cấp nhiều tri thức, kinh nghiệm tốt thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập quốc tế của Quốc hội và hoạt động tư pháp Việt Nam.
Về hạn chế, thiếu một chiến lược tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giám sát tư pháp của Quốc hội dài hơi. Chiến lược này phải được coi là một bộ phận cấu thành quan trọng của chiến lược nâng cao năng lực tổ chức và hoạt động của Quốc hội và hoạt động tư pháp, gắn bó hữu cơ và trở thành điều kiện của chiến lược phát triển của các cơ quan hữu quan. Cùng với hạn chế về chiến lược chung trong việc tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giám sát tư pháp của Quốc hội là những hạn chế về các chính sách cụ thể trong từng lĩnh vực như: Chưa có chính sách đồng bộ và hợp lý về phát hiện sử dụng nhân tài, lúng túng và thiếu đồng bộ trong chính sách tham gia, đãi ngộ các chuyên gia, nhà khoa học nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giám sát tư pháp của Quốc hội.... Còn tình trạng chưa thấy hết vai trò, vị trí của trí thức các chuyên gia, nhà khoa học nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giám sát tư pháp của Quốc hội. Do quan điểm chưa rõ ràng nên Quốc hội chưa có một nghị quyết về việc tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giám sát tư pháp của Quốc hội, do đó, đã chậm tạo hành lang thể chế hóa để sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giám sát tư pháp của Quốc hội được đưa vào cuộc sống để đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng tốt đội ngũ trí thức.
4. Một số giải pháp tăng cường sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giám sát tư pháp của Quốc hội
Thứ nhất, hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức tham gia hoạt động giám sát tư pháp của Quốc hội, trong đó chú trọng việc thể chế hóa các chủ trương, chính sách xã hội nhằm xây dựng một môi trường thực sự dân chủ, tôn trọng và bảo vệ các điều kiện lao động sáng tạo, các chế độ đãi ngộ thích đáng đối với trí thức tham gia hoạt động giám sát tư pháp của Quốc hội. Có chính sách và cơ chế để tạo điều kiện phát huy năng lực chuyên môn, khoa học của các chuyên gia, nhà khoa học ở các lĩnh vực mạnh dan góp ý kiến bất cập tư pháp. Nhà nước cần tiếp tục đầu tư nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất, kỹ thuật, mở ra nhiều khả năng cho đội ngũ tham gia hoạt động giám sát tư pháp của Quốc hội để họ cống hiến.
Thứ hai, xây dựng chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức tham gia hoạt động giám sát tư pháp của Quốc hội, trong đó quy định rõ thực thi các chính sách đãi ngộ của Nhà nước với trí thức, chuyên gia, nhà khoa học tham gia hoạt động giám sát tư pháp của Quốc hội. Có cơ chế, chính sách để động viên và sử dụng có hiệu quả những trí thức có sức khỏe, trình độ, năng lực chuyên môn tốt, thu hút các trí thức Việt kiều tham gia.
Thứ ba, tôn trọng thực sự, cầu thị thực sự về việc tham gia hoạt động giám sát tư pháp của Quốc hội. Củng cố và phát triển các hội trí thức nhằm nâng cao vai trò của các tổ chức này trong việc tập hợp, đoàn kết, góp phần phát huy năng lực chuyên môn, khoa học, tạo mọi điều kiện và cơ chế để nhà khoa học, chuyên gia tri thức tham gia hoạt động giám sát tư pháp của Quốc hội thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, tham gia tích cực vào quá trình hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước thông qua chính hoạt động của Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất hiện nay.
Viện Từ điển học & Bách khoa thư Việt Nam
Các tin khác
Bất cập trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo Bộ luật Tố tụng dân sự Vướng mắc cần tháo gỡ để nâng cao hoạt động tranh tụng của luật sư tại phiên toà hình sự Hoàn thiện thẩm quyền của hội đồng giám đốc thẩm theo tinh thần cải cách tư pháp Bàn về thẩm quyền đề nghị miễn thi hành án khoản tiền phạt theo Bộ luật Hình sự Những vướng mắc trong phối hợp thực hiện quy định về “cưỡng chế trả giấy tờ” Sự cần thiết và quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật Báo cáo thống kê thi hành án dân sự - Một số vấn đề từ thực tiễn Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về phiên tòa giám đốc thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp