1. Thực trạng trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng đối với công tác giám định tư pháp
1.1. Kết quả đạt được
Trên thực tế, trong các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan điều tra công an nhân dân và quân đội nhân dân là cơ quan chủ yếu thực hiện việc trưng cầu giám định tư pháp. Để góp phần nâng cao hiệu quả của công tác giám định tư pháp, liên ngành tố tụng cấp Trung ương và Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP ngày 13/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp quy định những trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định tư pháp trong giải quyết vụ án, vụ việc về tham nhũng, kinh tế (Thông tư liên tịch số 01); Quy chế phối hợp số 992/QCPH-BTP-BCA-BQP-VKSNDTC-TANDTC ngày 26/3/2018 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao trong công tác giám định tư pháp (Quy chế phối hợp số 992).
Về cơ bản, việc trưng cầu giám định được thực hiện theo mẫu thống nhất của liên ngành tố tụng cấp Trung ương và trên cơ sở lựa chọn các tổ chức, cá nhân giám định tư pháp có chuyên môn, năng lực phù hợp với nội dung, tính chất của vụ việc cần giám định. Các cơ quan tiến hành tố tụng cũng chủ động, tích cực trong việc đề nghị cơ quan quản lý nhà nước về giám định tư pháp giới thiệu cá nhân, tổ chức thực hiện giám định.
Trong quá trình đào tạo công tác kỹ thuật hình sự của ngành Công an nhân dân, Viện Khoa học hình sự đã phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng hướng dẫn về cách thức đặt câu hỏi đảm bảo khoa học; thông tin, tài liệu giám định được cung cấp đầy đủ; một số quy định về thời gian giám định đã được cơ quan trưng cầu hiểu rõ và áp dụng có hiệu quả... Qua đó, nội dung trưng cầu đã được cải thiện, nhận thức của cơ quan tiến hành tố tụng về tầm quan trọng của kết luận giám định ngày càng nâng cao. Việc tạm ứng, thanh toán tiền bồi dưỡng, chi phí giám định tư pháp cho người thực hiện giám định cũng được quan tâm, thực hiện theo các mức quy định của pháp luật.
1.2. Tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với công tác giám định vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như sau:
- Việc lựa chọn tổ chức, cá nhân thực hiện giám định
Một số cơ quan tiến hành tố tụng còn lúng túng trong việc lựa chọn tổ chức, cá nhân thực hiện giám định. Có trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng sau khi nhận được kết luận giám định tư pháp mới gửi công văn yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước về giám định tư pháp xác định việc trưng cầu của họ đã đúng đối tượng, phù hợp chuyên môn hay chưa?
Ở địa phương, một số lĩnh vực giám định không có tổ chức đủ điều kiện để thực hiện giám định như xây dựng, sở hữu trí tuệ, tài chính, ngân hàng… nên cơ quan tiến hành tố tụng phải trưng cầu các tổ chức giám định ở Trung ương. Ngược lại, tại địa phương, có trường hợp tổ chức, cá nhân có thể thực hiện giám định nhưng cơ quan tiến hành tố tụng vẫn trưng cầu các bộ, ngành ở Trung ương. Thực tế cho thấy, khi các vụ án liên quan đến tham nhũng, kinh tế ngày càng tăng thì những năm gần đây tại một số bộ, ngành ở Trung ương xuất hiện tình trạng quá tải trưng cầu giám định, không đảm bảo được nguồn lực và các điều kiện khác để thực hiện giám định, ảnh hưởng đến thời hạn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, vụ việc.
Cơ quan điều tra chưa trưng cầu các tổ chức chuyên môn có năng lực ngoài khu vực nhà nước thực hiện giám định mà chỉ tập trung trưng cầu tổ chức công lập, các bộ, sở, ngành chuyên môn. Trong khi đó, ở một số vụ việc, vụ án có liên quan đến nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ, sở, ngành thì việc trưng cầu tổ chức chuyên môn ngoài khu vực nhà nước là cần thiết để bảo đảm tính khách quan, độc lập của hoạt động giám định. Trên thực tế, thực hiện quy định của Luật Giám định tư pháp năm 2012 về xã hội hóa giám định tư pháp, đến nay mới chỉ có 01 Văn phòng giám định tư pháp được thành lập trong lĩnh vực tài chính tại Thành phố Hồ Chí Minh, song Văn phòng hoạt động cũng không hiệu quả, không được cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu thường xuyên.
- Nội dung trưng cầu giám định
Theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Thông tư liên tịch số 01 về những trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định tư pháp trong giải quyết vụ án, vụ việc về tham nhũng, kinh tế thì quyết định trưng cầu giám định phải có đầy đủ nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều 205 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và nội dung trưng cầu giám định chỉ nêu yêu cầu mang tính chuyên môn ở lĩnh vực hoặc chuyên ngành cần giám định, không nêu yêu cầu mang tính pháp lý. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều trưng cầu giám định chưa bảo đảm được nguyên tắc này. Nhiều trường hợp trưng cầu giám định vượt quá khả năng chuyên môn của tổ chức, cá nhân giám định hoặc yêu cầu trả lời những nội dung mang tính pháp lý hoặc nội dung trưng cầu chung chung, không rõ ràng; thậm chí, có một số trường hợp không cần thiết phải trưng cầu giám định nhưng cơ quan tiến hành tố tụng vẫn ra quyết định trưng cầu giám định hoặc cơ quan tiến hành tố tụng chưa tiến hành điều tra bước đầu mà đã trưng cầu giám định. Bên cạnh đó, một số nội dung trưng cầu giám định là nghiệp vụ chuyên môn mới phát sinh hoặc rất phức tạp, liên quan đến nhiều tổ chức thực hiện giám định khác nhau, song cơ quan tiến hành tố tụng khi ban hành quyết định trưng cầu giám định chưa xác định được cụ thể, chính xác từng vấn đề gắn với chuyên ngành, lĩnh vực nào, gây khó khăn cho các tổ chức thực hiện giám định.
- Đánh giá, sử dụng kết luận giám định
Theo quy định tại Điều 86, Điều 87 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án và kết luận giám định là một trong những nguồn chứng cứ. Xuất phát từ tầm quan trọng của kết luận giám định đối với hoạt động tố tụng, Điều 8 Thông tư liên tịch số 01 quy định về đánh giá, sử dụng kết luận giám định, trong đó có đưa ra các tiêu chí để đánh giá kết luận giám định trong trường hợp vụ án, vụ việc về tham nhũng, kinh tế có nhiều kết luận giám định khác nhau về cùng một nội dung và đã có kết luận của giám định lại trong trường hợp đặc biệt theo quy định tại Điều 212 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn không thống nhất được về việc sử dụng kết luận giám định đó.
Tuy nhiên, Thông tư liên tịch số 01 mới chỉ dừng lại ở nhóm các vụ án, vụ việc về tham nhũng, kinh tế, trong khi đó, giám định tư pháp được thực hiện ở rất nhiều lĩnh vực, vụ án, vụ việc khác. Trên thực tế, cơ quan tiến hành tố tụng vẫn còn gặp nhiều lúng túng, khó khăn khi đánh giá, sử dụng kết luận giám định hoặc không có sự thống nhất về nhận thức, quan điểm trong việc đánh giá, sử dụng kết luận giám định, nhất là trong các vụ án kinh tế, tham nhũng lớn thì tính chất của các vụ án đó rất phức tạp, liên quan tới nhiều đối tượng, nhiều lĩnh vực, người thực hiện giám định cũng là những nhà chuyên môn có kinh nghiệm, nghiệp vụ giỏi, tinh thông nên cơ quan tiến hành tố tụng cũng rất khó để đánh giá được về mặt nội dung của kết luận giám định, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người giám định, phương pháp, quy trình thực hiện giám định...
- Thanh toán tiền bồi dưỡng giám định, chi phí giám định tư pháp
Mặc dù, tình trạng nợ tiền bồi dưỡng giám định tư pháp, chi phí giám định tư pháp đã được các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng quan tâm, phối hợp giải quyết, có nhiều chuyển biến song vẫn còn những tồn tại, khó khăn trên thực tế. Hiện nay, chi phí giám định tư pháp trong Công an nhân dân được lập dự toán chung với kinh phí điều tra, trong khi đó, chi phí phục vụ giám định thường rất lớn, nhất là các vụ án, vụ việc liên quan đến lĩnh vực xây dựng, giao thông vận tải, tài chính... nên kinh phí được bố trí không đủ để chi trả chi phí giám định tư pháp.
Một số cơ quan trưng cầu giám định, người trưng cầu giám định còn lúng túng trong việc chi trả chi phí giám định tư pháp như về cách tính, định mức chi trả; thủ tục thanh toán còn phức tạp, mất nhiều thời gian. Do đó, nhiều trường hợp việc chi trả tiền bồi dưỡng còn chậm trễ hoặc nếu chi phí giám định không nhiều thì người thực hiện giám định không làm hồ sơ, thủ tục để thanh toán. Chi phí cần thiết chi trả cho người giám định tham dự phiên tòa chưa được một số cơ quan tố tụng quan tâm, gây khó khăn cho tổ chức, người giám định được triệu tập tham dự phiên tòa.
- Chế độ thống kê về giám định tư pháp của hệ thống cơ quan tiến hành tố tụng
Theo quy định tại khoản 2 Điều 42, khoản 3 Điều 44 Luật Giám định tư pháp năm 2012 và các quy định tại Thông tư liên tịch số 01, Quy chế phối hợp số 992, hằng năm, Bộ Công an có trách nhiệm thực hiện thống kê về trưng cầu, đánh giá việc thực hiện giám định và sử dụng kết luận giám định tư pháp trong hệ thống cơ quan điều tra thuộc thẩm quyền quản lý và gửi báo cáo về Bộ Tư pháp; Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao định kỳ 06 tháng, 01 năm cung cấp thông tin, số liệu đánh giá về trưng cầu, yêu cầu, thực hiện giám định tư pháp, đánh giá, sử dụng kết luận giám định trong giai đoạn tố tụng thuộc thẩm quyền cho Bộ Tư pháp phục vụ công tác quản lý nhà nước về giám định tư pháp.
Việc thực hiện trách nhiệm thống kê về trưng cầu, đánh giá hoạt động giám định và sử dụng kết luận giám định của các cơ quan tiến hành tố tụng là căn cứ thực tiễn quan trọng để các cơ quan quản lý củng cố, phát triển tổ chức, đội ngũ người làm giám định, nâng cao hiệu quả hoạt động, quản lý giám định tư pháp nhằm bảo đảm phục vụ tốt hơn yêu cầu của hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Tuy nhiên, hằng năm, các cơ quan tiến hành tố tụng cấp Trung ương chưa quan tâm chỉ đạo thực hiện thống kê, dự báo nhu cầu giám định và đánh giá chất lượng hoạt động giám định trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử để cung cấp cho các cơ quan quản lý. Trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng có thực hiện báo cáo, thống kê thì mới chỉ nêu khái quát mà chưa thống kê cụ thể về tình hình trưng cầu, đánh giá, sử dụng kết luận giám định như thống kê về số vụ việc tiếp nhận thực hiện giám định (số lượng vụ việc tiếp nhận đúng thời hạn theo quy định pháp luật, chậm trễ, từ chối tiếp nhận và lý do từ chối); tiến độ thực hiện giám định (số vụ việc thực hiện kịp thời, chậm trễ, kéo dài làm ảnh hưởng đến thời hạn tố tụng) và chất lượng kết luận giám định (số lượng kết luận trả lời đầy đủ, rõ ràng các câu hỏi được trưng cầu; trả lời tương đối đầy đủ, rõ ràng; trả lời đầy đủ nhưng nội dung không rõ ràng; không đầy đủ, không rõ ràng hoặc có dấu hiệu “né tránh” vấn đề được yêu cầu trả lời...). Bên cạnh đó, các cơ quan tiến hành tố tụng cũng chưa căn cứ vào các số liệu thống kê để đánh giá tình hình thực hiện giám định của các tổ chức được trưng cầu, dự báo nhu cầu giám định của năm tiếp theo để các cơ quan quản lý nhà nước về giám định tư pháp nắm được mức độ đáp ứng của công tác giám định tư pháp đối với hoạt động tố tụng, qua đó, đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp.
1.3. Nguyên nhân
- Về thể chế liên quan đến trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng đối với hoạt động giám định tư pháp
Trong hoạt động giám định tư pháp, cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan trưng cầu) và cơ quan, cá nhân tổ chức chuyên môn (cá nhân, tổ chức được trưng cầu) là hai chủ thể chính. Tuy nhiên, nếu như trách nhiệm của cá nhân, tổ chức chuyên môn đã được quy định chi tiết tại Luật Giám định tư pháp và các văn bản có liên quan, thì việc quy định trách nhiệm đối với cơ quan tiến hành tố tụng - nhóm chủ thể tư pháp đặc biệt còn chừng mực, hạn chế. Cụ thể:
+ Chưa có quy định cụ thể về cách thức lựa chọn cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp của cơ quan tiến hành tố tụng; trách nhiệm của cơ quan này khi lựa chọn cá nhân, tổ chức thực hiện giám định không phù hợp thực hiện giám định làm ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết vụ việc, vụ án.
+ Chưa có các quy định chặt chẽ, rõ ràng, mang tính hệ thống về trình tự, thủ tục trưng cầu giám định. Điều 25 Luật Giám định tư pháp năm 2012 mới chỉ quy định chung về hình thức, các nội dung phải có trong trưng cầu giám định mà chưa quy định cụ thể cách thức trưng cầu giám định, công việc phải thực hiện trước khi trưng cầu giám định, trách nhiệm, vai trò cụ thể của cơ quan tiến hành tố tụng đối với các vụ việc giám định nói chung và các vụ việc, vụ án phức tạp, liên quan nhiều chuyên ngành nói riêng.
+ Chưa có quy định về đánh giá, sử dụng kết luận giám định dành cho các vụ việc nói chung, Thông tư liên tịch số 01 đã quy định về đánh giá, sử dụng kết luận giám định, tuy nhiên, phạm vi chỉ dừng lại ở những trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định tư pháp trong các vụ án, vụ việc về tham nhũng, kinh tế.
- Về tổ chức, thực hiện
+ Một số cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là người đứng đầu còn chưa quan tâm, nhận thức đầy đủ về vai trò của công tác giám định tư pháp đối với hoạt động tố tụng và trách nhiệm của cơ quan mình đối với công tác giám định tư pháp, công tác tuyên truyền, phổ biến về giám định tư pháp còn hình thức, hạn chế. Vì vậy, nhiều trường hợp tổ chức, cá nhân thực hiện giám định không nhận được sự phối hợp, bảo đảm điều kiện để thực hiện giám định, tham gia phiên tòa từ phía cơ quan tiến hành tố tụng.
+ Công tác tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao của cơ quan tiến hành tố tụng cấp Trung ương còn chậm trễ, chưa đáp ứng được yêu cầu cấp thiết của hoạt động giám định tư pháp, dẫn đến một số khó khăn, vướng mắc kéo dài nhiều năm như vấn đề về căn cứ, cách thức trưng cầu giám định, trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc thống kê, đánh giá, dự báo nhu cầu giám định để thông tin, phối hợp với các cơ quan quản lý, kinh phí chi trả chi phí giám định tư pháp...
Đặc biệt, Đề án tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp ban hành kèm theo Quyết định số 250/QĐ-TTg ngày 28/02/2018 của Thủ tướng Chính phủ đã đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì nghiên cứu, trình cấp có thẩm quyền thành lập Tổ tư vấn liên ngành về giám định tư pháp gồm đại diện Ban Nội chính Trung ương, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp. Việc thành lập Tổ tư vấn liên ngành về giám định tư pháp nhằm kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về giám định tư pháp, bảo đảm đáp ứng kịp thời, có chất lượng yêu cầu giám định của hoạt động điều tra, truy tố và xét xử, phục vụ cho việc giải quyết có hiệu quả các vụ án trọng điểm, nhất là các án tham nhũng, kinh tế thuộc diện chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng; đồng thời bảo đảm tham mưu, đề xuất các giải pháp khắc phục những khó khăn, vướng mắc về giám định tư pháp ở tầm vĩ mô, phục vụ cho việc chỉ đạo giải quyết án tham nhũng, kinh tế của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, sau 02 năm triển khai thực hiện Đề án thì Tổ tư vấn liên ngành về giám định tư pháp vẫn chưa được thành lập.
2. Một số giải pháp nhằm tăng cường trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng đối với công tác giám định tư pháp
2.1. Để khắc phục những tồn tại, hạn chế trong quy định của pháp luật về trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng đối với công tác giám định tư pháp, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp đã sửa đổi, bổ sung một số nội dung sau:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quy định về nghĩa vụ của người trưng cầu giám định tư pháp tại khoản 2 Điều 21 Luật Giám định tư pháp nhằm nâng cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng khi trưng cầu giám định, bảo đảm những điều kiện cơ bản cho cá nhân, tổ chức khi thực hiện giám định, bao gồm: Xác định rõ nội dung, lĩnh vực hoặc chuyên ngành cần giám định trong vụ án, vụ việc đang giải quyết để ra quyết định trưng cầu giám định; cung cấp kịp thời, đầy đủ và chịu trách nhiệm trước pháp luật về thông tin, tài liệu, mẫu vật có liên quan đến đối tượng, nội dung cần giám định; thực hiện các biện pháp để bảo vệ người giám định tư pháp hoặc người thân thích của họ khi có căn cứ cho rằng họ bị đe dọa về tính mạng, sức khỏe... do thực hiện giám định tư pháp.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung Điều 25 Luật Giám định tư pháp về trưng cầu giám định tư pháp theo hướng quy định mang tính nguyên tắc về cơ chế thông tin, phối hợp giữa cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng với cá nhân, tổ chức dự kiến được trưng cầu giám định và cơ quan có liên quan trước khi ra quyết định trưng cầu giám định. Đặc biệt là bổ sung quy định về trưng cầu giám định trong trường hợp nội dung giám định của vụ việc liên quan đến nhiều lĩnh vực chuyên môn nhằm giải quyết các vướng mắc, khó khăn phát sinh trong quá trình trưng cầu, phối hợp triển khai thực hiện giám định.
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung trách nhiệm của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao trong việc trưng cầu, đánh giá, sử dụng kết luận giám định trong hệ thống cơ quan điều tra và gửi báo cáo về Bộ Tư pháp, bộ, ngành có liên quan; chỉ đạo cơ quan tiến hành tố tụng cấp tỉnh gửi báo cáo về Sở Tư pháp và các sở, ngành có liên quan; lập dự toán và đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp kinh phí bảo đảm chi trả chi phí giám định tư pháp. Bên cạnh đó, Luật sửa đổi, bổ sung đã quy định trách nhiệm của Tòa án nhân dân tối cao trong việc bố trí vị trí của người giám định tư pháp khi tham gia tố tụng tại phiên tòa.
2.2. Thực hiện Chương trình công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ năm 2020, theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ, để triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp kịp thời, thống nhất và hiệu quả, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan rà soát các nhiệm vụ được giao trong Luật và xây dựng dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật, trong đó đưa ra một số nhiệm vụ nhằm nâng cao, tăng cường trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng đối với công tác giám định tư pháp, cụ thể như sau:
Thứ nhất, tổ chức quán triệt việc thi hành và giới thiệu, tuyên truyền, phổ biến nội dung của Luật sửa đổi, bổ sung cho đội ngũ người tiến hành tố tụng thuộc thẩm quyền quản lý.
Thứ hai, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết các nội dung được giao trong Luật và sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật để phù hợp với Luật:
- Bộ Công an sửa đổi, bổ sung Thông tư số 03/2013/TT-BCA ngày 10/01/2013 của Bộ Công an về sử dụng kinh phí điều tra trong lực lượng công an nhân dân theo hướng tách riêng mục dự toán ngân sách bảo đảm nguồn kinh phí chi trả đầy đủ, kịp thời chi phí giám định, bồi dưỡng giám định; hướng dẫn về căn cứ, cách thức, trình tự, thủ tục trưng cầu giám định tư pháp trong hoạt động tố tụng hình sự.
- Đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp ban hành chỉ tiêu thống kê và thực hiện thống kê về trưng cầu, yêu cầu giám định, đánh giá việc thực hiện giám định và sử dụng kết luận giám định trong hoạt động tố tụng hình sự gắn với việc thực hiện thống kê hình sự.
- Đề nghị Tòa án nhân dân tối cao ban hành văn bản hướng dẫn về căn cứ, cách thức xem xét, đánh giá, sử dụng kết luận giám định trong hoạt động tố tụng; về vị trí phù hợp cho người giám định tư pháp bảo đảm nhiệm vụ tham gia tố tụng tại phiên tòa; về dự toán, cấp phát, bảo đảm kinh phí chi trả tiền bồi dưỡng phiên tòa và các chi phí cần thiết cho người giám định tư pháp tham dự phiên tòa; chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp và cơ quan có liên quan ban hành chỉ tiêu thống kê và thực hiện thống kê về trưng cầu, yêu cầu giám định, đánh giá việc thực hiện giám định, sử dụng kết luận giám định trong hoạt động tố tụng dân sự, hành chính.
Thứ ba, đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng cấp Trung ương tổ chức tập huấn, bồi dưỡng về giám định tư pháp cho đội ngũ người tiến hành tố tụng thuộc thẩm quyền quản lý.
Cục Bổ trợ tư pháp