Thực hiện chủ trương phát triển kinh tế tư nhân, Nhà nước đã thể chế hóa, ban hành các luật liên quan để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh. Các chính sách, chương trình trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa đã từng bước đi vào cuộc sống. Việc thực thi chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa của các bộ, ngành giúp cho cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa nỗ lực vượt khó khăn để phát triển bền vững. Thông qua bài viết, tác giả đã chỉ ra cho độc giả một cái nhìn khái quát về thực trạng doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam hiện nay như: Vấn đề tiếp cận vốn vay; hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, hàng tồn kho lớn; bất cập về trình độ quả lý và chất lượng nguồn lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa; năng lực tiếp cận với các chính sách pháp luật và thông lệ quốc tế trong kinh doanh. Quan đó, khắng định lại việc tạo hành lang pháp lý cho việc xây dựng và thực hiện các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong Dự thảo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa là rất cần thiết.
1. Khái quát thực trạng doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam hiện nay
- Về tiếp cận vốn vay: Chính phủ đã triển khai các chính sách, chương trình hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa như bảo lãnh tín dụng và hỗ trợ tín dụng. Tuy nhiên, trên thực tế mới có một số lượng nhỏ các doanh nghiệp đã được thụ hưởng chính sách hỗ trợ này. Qua khảo sát của Viện Phát triển doanh nghiệp cho thấy, 55% trở ngại do thủ tục vay (hồ sơ vay vốn phức tạp, không đủ thủ tục vay vốn đơn giản cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa); 50% trở ngại do yêu cầu thế chấp (thiếu tài sản có giá trị cao để thế chấp, ngân hàng không đa dạng hóa tài sản thế chấp như hàng trong kho, các khoản thu…); 80% tỷ lệ lãi suất chưa phù hợp. Khó khăn nhất vẫn là thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh. Hiện nay, chỉ có 30% các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận được vốn từ ngân hàng, 70% còn lại phải sử dụng vốn tự có hoặc vay từ nguồn khác (trong số này có nhiều doanh nghiệp vẫn phải chịu vay ở mức lãi suất cao từ 15 - 18%). Điều kiện vay vốn hiện nay chưa phù hợp với doanh nghiệp nhỏ và vừa, rất ít các doanh nghiệp đáp ứng được điều kiện không được nợ thuế quá hạn, không nợ lãi suất quá hạn.
- Về công nghệ: Doanh nghiệp nhỏ và vừa được kỳ vọng là có thể đóng góp vào sự phát triển của các ngành công nghiệp hỗ trợ, hoặc đóng vai trò là nhà cung ứng dịch vụ, sản phẩm đầu vào cho các doanh nghiệp nước ngoài hoặc các dự án lớn của nhà nước. Quá trình này sẽ thúc đẩy cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trở thành trụ cột để phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ. Tuy nhiên, hiện nay, đa số doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam chưa tham gia vào được chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu. Kết quả khảo sát của Bộ Khoa học và Công nghệ mới đây cho thấy, trình độ khoa học công nghệ và năng lực đổi mới trong doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam còn thấp. Số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ còn rất ít. Số lượng nhà khoa học, chuyên gia làm việc trong các doanh nghiệp chỉ chiếm 0,025% trong tổng số lao động làm việc trong khu vực doanh nghiệp. Khoảng 80 - 90% máy móc và công nghệ sử dụng trong các doanh nghiệp của Việt Nam là nhập khẩu và 76% từ thập niên 1980 - 1990, 75% máy móc và trang thiết bị đã hết khấu hao.
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, hàng tồn kho lớn: Trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế hầu hết giá nguyên liệu đầu vào của các ngành đều tăng, trong khi giá bán sản phẩm không tăng. Đối với ngành có tỷ lệ nội địa hóa thấp, phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nguyên liệu, phụ kiện nhập khẩu (ví dụ, sản xuất dây và cáp điện, điện tử, cơ khí…) bị ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh. Trong khi sức tiêu thụ của thị trường giảm sút, nhiều doanh nghiệp phải chủ động thu hẹp sản xuất, hoạt động cầm chừng. Hàng tồn kho trong một số ngành hàng tăng cao như bất động sản, vật liệu xây dựng, nông sản… nhiều doanh nghiệp kinh doanh bất động sản phải đối mặt với các khoản vay lớn của ngân hàng, đến hạn trả nhưng không có nguồn thu, không còn tài sản và khả năng huy động vốn để duy trì kinh doanh, chi phí sản xuất các ngành chế biến và bảo quản rau, củ, quả tăng 123,2%; sản xuất các sản phẩm từ nhựa tăng 89,1%; sản xuất kim loại đúc sẵn tăng 62,8%; sản xuất xe có động cơ tăng 56,2%; sản xuất xi măng tăng 52,3%...
- Bất cập về trình độ quản lý và chất lượng nguồn lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa: Theo thống số liệu thống kê, có tới 55,63% số chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống, trong đó 43,3% chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ sơ cấp và phổ thông các cấp. Cụ thể, số người là tiến sỹ chỉ chiếm 0,66%; thạc sỹ 2,33%; đã tốt nghiệp đại học 37,82%; tốt nghiệp cao đẳng chiếm 3,56%; tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp chiếm 12,33% và 43,3% có trình độ thấp hơn. Về lực lượng lao động có tới 75% lực lượng lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật. Việc thực hiện chưa đầy đủ các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động đã làm giảm đi chất lượng công việc trong khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, do vậy, các doanh nghiệp nhỏ và vừa càng rơi vào vị thế bất lợi.
Điều đáng chú ý là đa số các chủ doanh nghiệp, ngay cả những người có trình độ học vấn từ cao đẳng và đại học trở lên thì cũng ít người được đào tạo về kiến thức kinh tế và quản trị doanh nghiệp, các lớp về pháp luật trong kinh doanh... điều này có ảnh hưởng lớn đến việc lập chiến lược phát triển, định hướng kinh doanh và quản lý , phòng tránh các rủi ro pháp lý của các doanh nghiệp Việt Nam.
- Năng lực tiếp cận với các chính sách pháp luật và thông lệ quốc tế trong kinh doanh: Trong quá trình hội nhập quốc tế, Quốc hội, Chính phủ đang từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật cho phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam, đặc biệt là các Hiệp định Tự do thương mại thế hệ mới mà Việt Nam vừa tham gia ký kết. Nhà nước đã ban hành hàng loạt các chính sách pháp luật, có thể nói hệ thống pháp luật trong kinh doanh ngày càng hoàn thiện, tuy nhiên, năng lực tiếp cận với các văn bản và hệ thống chính sách pháp luật của doanh nghiệp nhỏ và vừa còn nhiều hạn chế. Việc tiếp cận hạn chế này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách quan, phần khách quan do nội tại nền kinh tế nước ta như cải cách hành chính diễn ra còn chậm, chính sách kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, gây mất lòng tin cho doanh nghiệp... Tuy nhiên, phần lớn là do chủ quan, các doanh nghiệp doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa thực sự tìm hiểu các chính sách pháp luật và thông lệ quốc tế để nâng cao năng lực của chính mình trong kinh doanh. Đây là vấn đề rất đáng lưu tâm, đòi hỏi Nhà nước và doanh nghiệp phải có những giải pháp nhằm thay đổi, tăng cường năng lực tiếp cận với các thông tin, chính sách pháp luật và thông lệ quốc tế trong kinh doanh cho doanh nghiệp.
2. Cần tạo hành lang pháp lý cho việc xây dựng và thực hiện các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2015 - 2020, Chính Phủ đang tập trung thực hiện nhiều giải pháp để thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế đất nước, tăng cường năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Dự thảo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đã trình Quốc hội trong kỳ họp cuối năm 2016. Chúng tôi đánh giá cao những quan điểm, chính sách cụ thể, mang tích đổi mới, cải cách rất mạnh mẽ của Dự thảo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời, xin góp ý một số nội dung quy định về vấn đề xây dựng và thực hiện các chương trình mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, cụ thể như sau:
Thứ nhất, Dự thảo Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa nên dành một Chương quy định về trình tự xây dựng và quản lý các chương trình mục tiêu để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thiết nghĩ, chương trình mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa là chuỗi các hoạt động do cơ quan chủ trì xây dựng trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt để thực hiện mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong một nhóm ngành hoặc một lĩnh vực theo địa bàn cả nước hoặc phạm vi nhất định trong một khoảng thời gian được ấn định trong chương trình. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay chúng ta cần hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa như hỗ trợ khởi nghiệp, hỗ trợ đổi mới sáng tạo, hỗ trợ liên kết ngành và chuỗi giá trị, hỗ trợ hội nhập… Ngoài ra, có thể còn có các mục tiêu khác theo điều kiện hoàn cảnh địa phương vùng miền.
Thứ hai, việc xây dựng các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa phải khắc phục tình trạng dàn trải trong việc ban hành các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp trong thời gian vừa qua[1], hướng tới việc ban hành chương trình hỗ trợ thực sự như một “lực đẩy”, “bệ phóng” của các cơ quan Nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa trong những ngành, lĩnh vực nhất định và được thực hiện trong một thời gian nhất định.
Thứ ba, Dự thảo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa không nên ấn định cơ quan chủ trì các chương trình mục tiêu mà nên tạo cơ chế rộng rãi, thông thoáng cho các bộ, ngành, các thành phố lớn như: Hà Nội, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ và các tổ chức đại diện doanh nghiệp chủ động lập đề xuất xây dựng chương trình hỗ trợ mục tiêu trình Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt; trong các chương trình mục tiêu trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt sẽ ghi cơ quan nào chủ trì, cơ quan nào phối hợp.
Thứ tư, Dự thảo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ nên tạo cơ chế hành lang pháp lý cho việc xây dựng các chương trình bao gồm các quy định về thủ tục trình tự lập đề án xây dựng chương trình mục tiêu phải đảm bảo các yêu cầu như: Khảo sát nhu cầu của doanh nghiệp nhỏ và vừa trước khi xây dựng chương trình mục tiêu; nội dung hồ sơ trình Thủ tướng Chính phủ khi phê duyệt các chương trình mục tiêu; đánh giá tác động khi thực hiện chương trình mục tiêu; vai trò trách nhiệm thẩm tra, thẩm định của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hội đồng khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa Quốc gia khi xây dựng các chương trình mục tiêu; giám sát việc thực hiện các chương trình mục tiêu;
Thứ năm, cần phát huy mạnh mẽ vai trò của Hội đồng khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa Quốc gia trong việc thẩm tra đề án chương trình mục tiêu trước khi trình Thủ tướng chính phủ phê duyệt, giám sát quá trình thực hiện các chương trình mục tiêu. Nên đặt vị trí vai trò của Hội đồng khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa Quốc gia và Cơ quan thường trực của Hội đồng là Bộ Kế hoạch và Đầu tư với vị trí vừa là cơ quan tư vấn cho Chính phủ, Thủ Tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đồng thời là cơ quan chỉ đạo, giám sát, điều phối thực hiện các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Có như vậy mới khắc phục được những trùng lắp, chồng chéo trong các chương trình mục tiêu thời gian vừa qua, đồng thời huy động được các cấp chính quyền địa phương vào cuộc trong việc tham gia vào việc thực hiện các chương trình mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa, cá nhân khởi nghiệp đang mong mỏi và kỳ vọng vào Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa “sẽ là lực đẩy quan trọng” nhằm khắc phục những yếu kém nội tại của doanh nghiệp nhỏ và vừa, đưa lực lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trở thành nền tảng qua trọng trong phát triển kinh tế - xã hội.
Học viện Hành chính Quốc gia
[1]. Hiện nay theo Sách Hướng dẫn chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa do Bộ Kế hoạch Đầu tư tổng hợp, Việt Nam có khoảng 28 Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp do các bộ, ngành đang chủ trì thực hiện.