1. Thời hạn giám định tư pháp
1.1. Sự cần thiết bổ sung quy định thời hạn giám định trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp
Tuy nhiên, Luật Giám định tư pháp năm 2012 do nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách quan, trong đó có nguyên nhân quan trọng là vụ việc giám định rất đa dạng về nội dung, lĩnh vực, quy mô, tính phức tạp của nội dung giám định nên việc xác định và quy định cụ thể về thời hạn giám định cho mỗi vụ việc là rất khó khăn, không khả thi; đồng thời, pháp luật tố tụng dành sự chủ động về thời hạn giám định cho cơ quan trưng cầu, theo đó, thời hạn giám định được ghi trong quyết định trưng cầu giám định[1]. Luật Giám định tư pháp năm 2012 chỉ quy định nghĩa vụ của người giám định tư pháp trong việc thực hiện và trả kết luận giám định đúng thời hạn yêu cầu; trong trường hợp cần thiết phải có thêm thời gian để thực hiện giám định thì phải thông báo kịp thời cho người trưng cầu, yêu cầu giám định biết (điểm c khoản 2 Điều 23). Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 lần đầu tiên quy định thời hạn giám định nhưng chỉ là thời hạn đối với trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định (Điều 206 và Điều 208). Theo quy định này, thì thời hạn giám định quy định cho từng nội dung giám định cụ thể như sau:
- Không quá 03 tháng đối với trường hợp giám định xác định tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án;
- Không quá 01 tháng đối với trường hợp giám định xác định nguyên nhân chết người, mức độ ô nhiễm môi trường;
- Không quá 09 ngày đối với trường hợp giám định xác định tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án và không có tài liệu để xác định chính xác tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó, tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động, chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ.
Các quy định thời hạn giám định nêu trên đối với nội dung chuyên môn lĩnh vực giám định pháp y, pháp y tâm thần và lĩnh vực kỹ thuật hình sự là các lĩnh vực có tổ chức giám định tư pháp công lập, chuyên trách. Thực tiễn trong thời gian qua, hoạt động giám định tư pháp ở những lĩnh vực này cơ bản đã đáp ứng kịp thời theo yêu cầu của hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, đối với các lĩnh vực giám định khác (ngoài lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự) như giám định về tài chính, ngân hàng, đất đai, xây dựng… là các lĩnh vực không có tổ chức giám định tư pháp công lập, chuyên trách. Hoạt động giám định trong các lĩnh vực này chủ yếu do công chức, viên chức thuộc các quan quản lý nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp… được phân công thực hiện giám định. Người giám định trong các lĩnh vực này vừa thực hiện công tác chuyên môn vừa tham gia hoạt động giám định nên thường ít chú trọng thời hạn giám định, mặt khác nội dung giám định trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đất đai, xây dựng… thường rất nhiều, phức tạp cần nghiên cứu nhiều tài liệu. Trong khi đó, pháp luật lại không có quy định cụ thể về thời hạn giám định nên dễ dẫn đến việc người giám định không chú trọng với hoạt động giám định khi được phân công, người trưng cầu giám định không có cơ sở để đôn đốc nên nhiều vụ việc thời gian giám định bị kéo dài, gây khó khăn cho hoạt động tố tụng. Vì vậy, cần bổ sung quy định về thời hạn giám định, giúp cơ quan tiến hành tố tụng chủ động hơn, phù hợp với thời hạn tố tụng.
1.2. Về bổ sung quy định thời hạn giám định trong trường hợp trưng cầu giám định[2]
Như phân tích nêu trên, yêu cầu của hoạt động tố tụng không chỉ giám định pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự mà trong tình hình mới nhu cầu giám định về lĩnh vực tài chính, ngân hàng, xây dựng, đất đai, môi trường... ngày càng nhiều, nội dung giám định ngày càng phức tạp, nhất là những vụ án lớn trong lĩnh vực kinh tế, liên quan đến tham nhũng đòi hỏi pháp luật cần qut định rõ thời hạn giám định giúp cơ quan trưng cầu giám định chủ động, có cơ sở để phối hợp, đôn đốc hoạt động giám định. Vì vậy, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp (Luật sửa đổi, bổ sung) đã bổ sung 01 điều (Điều 26a) quy định về thời hạn giám định trong trường hợp trưng cầu giám định.
Điều 26a Luật sửa đổi, bổ sung quy định về khái niệm thời hạn giám định, thời hạn giám định trong trường hợp phải bổ sung hồ sơ, tài liệu làm cơ sở cho việc giám định (khoản 1); thời hạn giám định đối với trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định thực hiện theo quy định tại Điều 208 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; khoản 3 Điều này quy định thời hạn giám định tối đa là 03 tháng. Trường hợp vụ việc giám định có tính chất phức tạp hoặc khối lượng công việc lớn thì thời hạn giám định tối đa là 04 tháng. Do tính chất của các vụ việc giám định không giống nhau, tính phức tạp của nội dung cần giám định của mỗi vụ việc lại khác nhau nên thời gian cần thiết để thực hiện giám định cũng khác nhau, việc quy định cụ thể thời hạn cho từng loại vụ việc ở tất cả các lĩnh vực là không có cơ sở khoa học, thiếu tính khả thi. Vì vậy, Luật giao trách nhiệm cho bộ, cơ quan ngang bộ quản lý chuyên môn về lĩnh vực giám định tư pháp căn cứ vào thời hạn giám định tối đa và tính chất chuyên môn của lĩnh vực giám định quy định thời hạn giám định cho từng loại việc cụ thể. Thời hạn giám định có thể được gia hạn theo quyết định của cơ quan trưng cầu giám định nhưng không quá một phần hai thời hạn giám định tối đa đối với loại việc đó.
Đồng thời, để bảo đảm tính linh hoạt, hiệu quả, Luật sửa đổi, bổ sung còn quy định cho phép người trưng cầu giám định có thể thống nhất về thời hạn giám định với cá nhân, tổ chức được trưng cầu giám định trước khi trưng cầu giám định nhưng không được vượt quá thời hạn giám định theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này (khoản 4 Điều 26 a). Trường hợp không thể hoàn thành đúng thời hạn do có vấn đề phát sinh hoặc có cơ sở cho rằng vụ việc giám định không thể đúng thời hạn thì thì cá nhân, tổ chức thực hiện giám định phải kịp thời thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do cho người trưng cầu giám định biết và thời gian dự kiến hoàn thành, ra kết luận giám định (khoản 5 Điều 26a).
2. Trưng cầu giám định tư pháp
2.1. Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung quy định về trưng cầu giám định tư pháp
Trưng cầu giám định là một trong các biện pháp tố tụng nhằm thu thập chứng cứ theo quy định của pháp luật tố tụng. Kết quả giám định (kết luận giám định) cung cấp nguồn chứng cứ giúp cơ quan tiến hành tố tụng có căn cứ giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính và vụ việc dân sự. Luật Giám định tư pháp năm 2012, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã quy định rõ ràng về người có thẩm quyền trưng cầu giám định, quyền và nghĩa vụ của người trưng cầu giám định, nội dung quyết định trưng cầu giám định[3].
Theo báo cáo của các bộ, ngành và địa phương, hoạt động giám định tư pháp trong những năm qua chủ yếu phục vụ hoạt động tố tụng hình sự theo trưng cầu của cơ quan điều tra trong công an nhân dân và quân đội nhân dân, còn lại là trưng cầu giám định của các cấp tòa án, cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Lĩnh vực giám định được trưng cầu chủ yếu là pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự (90%), các lĩnh vực giám định về xây dựng, tài chính, ngân hàng, thông tin và truyền thông, kế hoạch và đầu tư... có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây, lĩnh vực khoa học và công nghệ, văn hóa, nông nghiệp và phát triển nông thôn, công thương... cũng có nhưng thấp; nhu cầu giám định trong giao dịch dân sự do đương sự tự yêu cầu giám định chưa phổ biến, phát sinh chủ yếu ở lĩnh vực pháp y tâm thần, chuyên ngành dấu vết tài liệu trong kỹ thuật hình sự, xây dựng...
Việc trưng cầu giám định được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng các cấp thực hiện có nhiều tiến bộ so với những năm trước khi có Luật Giám định tư pháp, đặc biệt từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Luật Tố tụng hành chính năm 2015 có hiệu lực pháp luật công tác trưng cầu giám định tư pháp ngày càng đi vào nề nếp. Việc tiếp nhận trưng cầu, yêu cầu giám định được các tổ chức, cơ quan giám định thực hiện nhanh gọn, nhất là đối với lĩnh vực có tổ chức giám định chuyên trách như pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự, hầu hết là đáp ứng kịp thời yêu cầu; việc tiếp nhận và thực hiện giám định trong những lĩnh vực không có tổ chức chuyên trách cũng từng bước được các bộ, cơ quan ngang bộ chủ quản và các sở, ngành chuyên môn quan tâm tiếp nhận, thực hiện và cũng có nhiều thay đổi tích cực so với trước đây, cơ bản đáp ứng yêu cầu của hoạt động tố tụng nói chung như xây dựng, thông tin và truyền thông, văn hóa... Tuy nhiên, công tác trưng cầu giám định trong một số vụ việc về lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đất đai... phục vụ giải quyết án tham nhũng, kinh tế vẫn còn một số tồn tại, hạn chế gây khó khăn, vướng mắc cho hoạt động giám định và kéo dài thời gian thực hiện giám định, có thể kể như[4]:
- Nhiều trường hợp nội dung trưng cầu giám định chưa đủ rõ, chưa cụ thể, có trường hợp nội dung trưng cầu yêu cầu người giám định xem xét, đánh giá, cho ý kiến cả về những vấn đề pháp lý của vụ án, vượt quá phạm vi chuyên môn, không phù hợp với tính chất đặc thù của hoạt động giám định tư pháp...
- Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tập hợp quá nhiều nội dung cần giám định trong một quyết định trưng cầu giám định, gây khó khăn cho hoạt động giám định, thậm chí có nội dung không thuộc phạm vi chuyên môn của cơ quan được trưng cầu giám định.
- Nhiều trường hợp cơ quan trưng cầu không cung cấp đầy đủ, kịp thời các tài liệu, thông tin cần thiết cho việc thực hiện giám định nên mất nhiều thời gian cho việc bổ sung làm ảnh hưởng đến thời hạn làm giám định.
- Hầu hết các cơ quan tiến hành tố tụng còn lúng túng, khó khăn trong tìm kiếm, lựa chọn, trưng cầu giám định. Việc phối hợp, cung cấp thông tin, tài liệu cho các cơ quan giám định còn chậm.
Những tồn tại, hạn chế nêu trên làm ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động tố tụng nói chung, công tác giải quyết các vụ án, nhất là các vụ án tham nhũng, kinh tế nói riêng. Vì vậy, yêu cầu sửa đổi, bổ sung quy định về trưng cầu giám định là rất cần thiết nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho hoạt động giám định, phục vụ tốt hơn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, nhất là các vụ án kinh tế, tham nhũng.
2.2. Nội dung sửa đổi, bổ sung về trưng cầu giám định tư pháp theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp
Để khắc khục tồn tại, hạn chế nêu trên, Luật sửa đổi, bổ sung đã bổ sung quy định về nghĩa vụ của cơ quan trưng cầu giám định và sửa đổi, bổ sung về trưng cầu giám định tư pháp, cụ thể là:
- Bổ sung, hoàn thiện quy định về nghĩa vụ của người trưng cầu giám định tư pháp (khoản 2 Điều 21), cụ thể là:
+ Xác định rõ nội dung, lĩnh vực hoặc chuyên ngành cần giám định trong vụ án, vụ việc đang giải quyết; lựa chọn cá nhân, tổ chức có năng lực, đủ điều kiện thực hiện giám định phù hợp với tính chất, nội dung cần giám định để ra quyết định trưng cầu giám định;
+ Ra quyết định trưng cầu giám định bằng văn bản;
+ Cung cấp kịp thời, đầy đủ và chịu trách nhiệm trước pháp luật về thông tin, tài liệu, mẫu vật có liên quan đến đối tượng, nội dung cần giám định theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp;
+ Tạm ứng, thanh toán kịp thời, đầy đủ chi phí giám định tư pháp;
+ Thực hiện hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để bảo vệ người giám định tư pháp hoặc người thân thích của người giám định tư pháp khi có căn cứ xác định tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người giám định tư pháp hoặc người thân thích của người giám định tư pháp bị đe dọa do việc thực hiện giám định tư pháp, tham gia vụ án, vụ việc với tư cách là người giám định tư pháp.
- Bổ sung, hoàn thiện quy định về trưng cầu giám định tư pháp (sửa đổi, bổ sung Điều 25), cụ thể là:
+ Người trưng cầu giám định quyết định trưng cầu giám định tư pháp bằng văn bản và gửi quyết định kèm theo đối tượng giám định, thông tin, tài liệu, đồ vật có liên quan (nếu có) đến cá nhân, tổ chức thực hiện giám định. Trường hợp đối tượng giám định, thông tin, tài liệu, đồ vật có liên quan không thể gửi kèm theo quyết định trưng cầu giám định thì người trưng cầu giám định có trách nhiệm làm thủ tục bàn giao cho cá nhân, tổ chức thực hiện giám định.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể về nội dung quyết định trưng cầu giám định, gồm: Tên cơ quan trưng cầu giám định; họ, tên người có thẩm quyền trưng cầu giám định; tên tổ chức; họ, tên người được trưng cầu giám định; tóm tắt nội dung sự việc; tên và đặc điểm của đối tượng cần giám định; tên tài liệu, đồ vật có liên quan hoặc mẫu so sánh gửi kèm theo (nếu có); nội dung chuyên môn của vấn đề cần giám định; ngày, tháng, năm trưng cầu giám định và thời hạn trả kết luận giám định tư pháp.
- Trường hợp trưng cầu giám định bổ sung hoặc trưng cầu giám định lại thì quyết định trưng cầu giám định phải ghi rõ là trưng cầu giám định bổ sung hoặc trưng cầu giám định lại và lý do của việc giám định bổ sung hoặc giám định lại.
- Trong trường hợp cần thiết, trước khi ra quyết định trưng cầu giám định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trao đối với cá nhân, tổ chức dự kiến được trưng cầu giám định và cơ quan có liên quan về nội dung trưng cầu, thời hạn giám định, thông tin, tài liệu, mẫu vật cần cho việc giám định và các vấn đề khác có liên quan (nếu có).
- Trường hợp nội dung cần giám định liên quan đến nhiều lĩnh vực, thuộc trách nhiệm của nhiều tổ chức thì người trưng cầu giám định phải tách riêng từng nội dung để trưng cầu tổ chức có chuyên môn phù hợp thực hiện giám định.
Trường hợp các nội dung giám định liên quan đến nhiều lĩnh vực chuyên môn có quan hệ mật thiết với nhau, thuộc trách nhiệm của nhiều tổ chức mà việc tách riêng từng nội dung gây khó khăn cho việc thực hiện giám định, ảnh hưởng đến tính chính xác của kết quả giám định hoặc kéo dài thời gian giám định thì người trưng cầu giám định phải xác định được nội dung chính cần giám định để xác định tổ chức chủ trì và tổ chức phối hợp trong việc thực hiện giám định.
Tổ chức chủ trì có trách nhiệm làm đầu mối tổ chức triển khai việc giám định chung và thực hiện giám định phần nội dung chuyên môn của mình.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định trưng cầu giám định, tổ chức được trưng cầu giám định tư pháp phải có văn bản cử người giám định gửi người trưng cầu giám định; đối với tổ chức phối hợp thực hiện giám định thì còn phải gửi văn bản cử người giám định cho tổ chức chủ trì việc thực hiện giám định. Tổ chức chủ trì phải tổ chức ngay việc giám định sau khi nhận được văn bản cử người của tổ chức phối hợp thực hiện giám định. Việc giám định trong trường hợp này được thực hiện theo hình thức giám định tập thể thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau quy định tại khoản 3 Điều 28 của Luật này.
Trường hợp phát sinh vướng mắc trong việc trưng cầu, phối hợp thực hiện giám định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chủ trì, phối hợp với tổ chức được trưng cầu để giải quyết.
Việc sửa đổi, bổ sung các quy định nêu trên sẽ góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật về trưng cầu giám định tư pháp và sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2021. Các cơ quan có thẩm quyền trưng cầu giám định cần nghiên cứu áp dụng đúng và đầy đủ trong hoạt động trưng cầu giám định sẽ giúp hoạt động giám định được thực hiện nhanh chóng, chính xác, giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án, vụ việc một cách kịp thời, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới./.
Cục Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp