Ngày 29/6/2018, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC quy định về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng (Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT). Thông tư liên tịch tiếp tục kế thừa thành tựu của các Thông tư liên tịch về phối hợp trợ giúp pháp lý (TGPL) trong tố tụng đã được hình thành từ năm 2007[1], đồng thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn. Thông tư liên tịch gồm 06 chương, 25 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/9/2018 và thay thế Thông tư liên tịch số 11/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 04/7/2013 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện một số quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng.
Trên cơ sở quy định của các bộ luật, luật tố tụng[2], Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017[3] với tinh thần lấy người được TGPL làm trung tâm, tăng cường khả năng tiếp cận với dịch vụ TGPL của người được TGPL, “nâng cao chất lượng TGPL” để bảo đảm “bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL”[4], Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của các ngành về phối hợp TGPL trong tố tụng, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
Trong phạm vi bài viết, tác giả đề cập đến việc phối hợp TGPL trong tố tụng theo Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT gồm: Trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ sở giam giữ, trại giam và người có thẩm quyền của các cơ quan trên với các tổ thức thực hiện TGPL[5] và người thực hiện TGPL[6] (thể hiện ở 05 nhóm hoạt động: Truyền thông về TGPL trong tố tụng; giải thích, thông báo, thông tin về TGPL; thống kê, báo cáo về công tác phối hợp; tạo điều kiện cho người thực hiện TGPL trực tại các cơ quan; một số hoạt động phối hợp khác. Trong mỗi nhóm hoạt động đều quy định rõ trách nhiệm của các bên trong công tác phối hợp để các chủ thể chủ động thực hiện nhiệm vụ, thúc đẩy hiệu quả công tác phối hợp); cơ chế phối hợp liên ngành trong việc bảo đảm quyền được TGPL của người được TGPL (Hội đồng phối hợp liên ngành về TGPL trong hoạt động tố tụng).
1. Truyền thông về trợ giúp pháp lý trong tố tụng
Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT quy định Trung tâm TGPL nhà nước thuộc Sở Tư pháp (Trung tâm) có trách nhiệm cung cấp các giấy tờ, tài liệu, hỗ trợ khác về truyền thông để các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ sở giam giữ thực hiện việc niêm yết bảng thông tin về TGPL, đặt hộp tin TGPL tại trụ sở của các cơ quan, niêm yết tờ thông tin về TGPL trong buồng tạm giữ, buồng tạm giam, tại nơi làm thủ tục tiếp nhận người bị tạm giữ, người bị tạm giam, phòng thăm gặp, phòng làm việc của người bào chữa và nơi sinh hoạt chung của người bị tạm giữ, người bị tạm giam; phát miễn phí tờ gấp pháp luật, đơn yêu cầu TGPL. Đồng thời, Trung tâm còn có trách nhiệm phối hợp thực hiện các hoạt động truyền thông và hướng dẫn về TGPL tại các đơn vị trong ngành (ví dụ: Hỗ trợ tài liệu, báo cáo viên…).
Đặc biệt, Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT bổ sung quy định: Trung tâm có trách nhiệm cung cấp băng ghi âm, đĩa ghi âm, usb hoặc phương tiện khác có chứa nội dung thông tin về TGPL dạng âm thanh và các cơ sở giam giữ có trách nhiệm phát qua các phương tiện truyền thanh tại nơi sinh hoạt chung của người bị tạm giữ, người bị tạm giam. Đây là quy định mới nhằm bảo đảm người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị can, bị cáo trong điều kiện bị giam giữ vẫn được tiếp cận thường xuyên với thông tin về TGPL để có thể sử dụng được dịch vụ này.
2. Giải thích, thông báo, thông tin về trợ giúp pháp lý
Đây là quy định mới giúp khắc phục tồn tại, hạn chế cơ bản trong việc tiếp cận với dịch vụ TGPL của người thuộc diện được TGPL là chưa có cơ chế cụ thể tạo điều kiện cho Trung tâm tiếp xúc trực tiếp với người thuộc diện được TGPL để hướng dẫn, giải thích về lợi ích của TGPL nên nhiều đối tượng do thiếu hiểu biết đã không yêu cầu TGPL dẫn đến bị bỏ sót. Đồng thời, quy định này còn cụ thể hóa các nội dung về giải thích, thông báo, hướng dẫn về TGPL tại các bộ luật, luật tố tụng, đặc biệt là Điều 71 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nhằm bảo đảm quyền được TGPL của người được TGPL.
Điều 7, Điều 8, Điều 9 Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT quy định các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thực hiện việc giải thích, thông báo, thông tin về TGPL như sau:
(i) Giải thích về quyền được TGPL
- Tại thời điểm bắt, tạm giữ người, lấy lời khai, hỏi cung bị can, lấy lời khai của người bị hại, lấy lời khai của đương sự, đương sự nộp đơn trực tiếp tại Tòa án hoặc tại thời điểm gửi thông báo thụ lý vụ án, thông báo thụ lý đơn yêu cầu, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm chuyển cho họ đọc bản thông tin về người được trợ giúp pháp lý (theo Mẫu số 01 có xác nhận của họ và được lưu hồ sơ vụ án, vụ việc). Trường hợp họ không tự đọc được thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo cho họ biết.
- Nếu họ tự nhận mình là người được TGPL thì giải thích về quyền được TGPL (kịp thời, đầy đủ, bằng ngôn ngữ dễ hiểu để họ hiểu rõ về quyền được TGPL).
- Giải thích trong tố tụng hình sự được thực hiện bằng việc cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đọc, hướng dẫn cụ thể nội dung và điền thông tin vào biên bản giải thích về quyền được TGPL miễn phí của người bị buộc tội, người bị hại, đương sự thuộc diện được TGPL (theo Mẫu số 02 và được lưu tại hồ sơ vụ án); giải thích trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính do người tiến hành tố tụng thực hiện.
(ii) Thông báo, thông tin về TGPL (phân chia theo tố tụng hình sự và tố tụng dân sự, hành chính)
- Trong tố tụng hình sự chia làm 03 trường hợp:
+ Thông báo: Trường hợp người bị buộc tội, người bị hại, đương sự tự nhận mình là người được TGPL và có yêu cầu TGPL thì thông báo (theo Mẫu số 03, ghi vào biên bản tố tụng và lưu tại hồ sơ vụ án) cho Trung tâm, chi nhánh để cử người thực hiện TGPL hoặc kiểm tra diện người được TGPL để cử người thực hiện TGPL; đối với người bị bắt, người bị tạm giữ còn phải thông báo ngay bằng điện thoại.
+ Thông tin: Trường hợp người bị buộc tội, người bị hại, đương sự tự nhận mình là người được TGPL và chưa có yêu cầu TGPL thì thông tin (theo Mẫu số 04) cho Trung tâm, chi nhánh biết để thực hiện việc kiểm tra diện người được TGPL, cử người thực hiện TGPL hoặc thông tin lại.
+ Chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội thuộc diện được TGPLtheo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì đề nghị Trung tâm, chi nhánh cử ngay người thực hiện TGPL bào chữa cho họ (theo Mẫu số 03).
- Trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính: Việc thông báo, thông tin được thực hiện như thông báo, thông tin trong tố tụng hình sự, tuy nhiên việc thông báo không phải ghi vào biên bản tố tụng.
Ngoài ra, tại Điều 10 và Điều 11 Thông tư liên tịch sô 10/2018/TTLT quy định cơ sở giam giữ, trại giam và người có thẩm quyền của các cơ quan trên cũng có trách nhiệm thực hiện việc giải thích, thông báo, thông tin về TGPL theo quy định tại Điều 7 Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT.
Nếu như trước đây, người thuộc diện được TGPL do thiếu hiểu biết về TGPL (nghĩ rằng TGPL có thể mất tiền, không hiểu lợi ích của việc được TGPL...) mà từ chối sử dụng dịch vụ này dẫn đến việc họ không có người bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong quá trình tố tụng, thì nay, với quy định mới tại Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT, người thuộc diện được TGPL chỉ cần thể hiện nguyện vọng “có yêu cầu” TGPL hoặc “chưa có yêu cầu” TGPL (thay cho việc “không có yêu cầu” TGPL) thì dù trong trường hợp họ “chưa có yêu cầu”, Trung tâm cũng sẽ chủ động tiếp cận, giải thích để họ hiểu và quyết định có sử dụng quyền được TGPL hay không. Với cơ chế này, nếu được thực thi nghiêm túc, sẽ không bỏ sót đối tượng thực sự có nhu cầu TGPL.
Khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT bổ sung quy định trách nhiệm của Trung tâm, chi nhánh khi nhận được thông báo, thông tin để tăng tính chủ động trong phối hợp và tiếp cận đối tượng, cụ thể:
- Khi nhận được thông báo thì cử người thực hiện TGPL trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo. Nếu vụ việc thuộc trường hợp thụ lý ngay thì cử ngay người thực hiện TGPL cho người được TGPL.
- Khi nhận được thông báo, thông tin thì kiểm tra diện người được TGPL đối với người bị buộc tội, người bị hại, đương sự để cử người thực hiện TGPL nếu họ là người được TGPL và có yêu cầu TGPL; hoặc thông tin lại cho cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chuyển đến biết nếu họ không thuộc diện được TGPL hoặc không có yêu cầu TGPL.
3. Thống kê, báo cáo về công tác phối hợp
Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT quy định Trung tâm có trách nhiệm cung cấp sổ theo dõi vụ việc TGPL trong hoạt động tố tụng theo Mẫu số 05 (Điều 3) và các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ sở giam giữ có trách nhiệm thực hiện thống kê vào sổ (Điều 8, Điều 10). Đây là quy định mới nhằm khắc phục tồn tại hiện nay là chưa thống kê được số liệu đối tượng thuộc diện được TGPL, từ đó dẫn tới việc khó nắm bắt được nhu cầu TGPL. Số liệu thống kê thể hiện rõ số lượng người được TGPL trên số đối tượng thuộc diện được TGPL và đối tượng do các ngành thụ lý, tiếp nhận. Từ đó, đánh giá chính xác, hiệu quả giải thích, thông báo, thông tin về TGPL, khả năng cung cấp dịch vụ TGPL và tránh bỏ lọt đối tượng thuộc diện được TGPL.
4. Tạo điều kiện cho người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại các cơ quan
Khoản 9 Điều 8 Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT quy định: “Khuyến khích cơ quan điều tra, Tòa án các cấp tạo điều kiện cho người thực hiện TGPL trực tại các cơ quan này phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương để người được TGPL biết và sử dụng dịch vụ TGPL kịp thời”. Đây là quy định tạo hướng đi mới, góp phần khắc phục tồn tại đó là: Do không có điều kiện tiếp cận với TGPL mà nhiều đối tượng thuộc diện được TGPL chưa yêu cầu được TGPL, vì thế không bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Quy định trên không chỉ giúp người được TGPL thuận lợi tiếp cận và yêu cầu TGPL mà còn giúp người thực hiện TGPL chủ động trong công tác phối hợp, tiếp cận người được TGPL để cung cấp dịch vụ TGPL. Đây là quy định mang tính chất “khuyến khích” (nhằm hướng tới các cơ quan tiến hành tố tụng và tổ chức thực hiện TGPL tại địa phương có đủ điều kiện) thực hiện để bảo đảm tốt nhất quyền được TGPL của các đối tượng. Tuy nhiên, để thực hiện được điều này, Sở Tư pháp (cụ thể là Trung tâm) phải có sự chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ với các thành viên của Hội đồng phối hợp liên ngành địa phương để lựa chọn cơ quan, đơn vị phù hợp (nơi có cơ sở vật chất bảo đảm, có nhiều vụ việc tố tụng…).
5. Một số hoạt động phối hợp khác
Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT cũng quy định về một số hoạt động phối hợp khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL như: Đăng ký bào chữa, đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; thông báo trước về thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra, lịch xét xử cho tổ chức thực hiện TGPL và người thực hiện TGPL; tạo điều kiện thuận lợi cho người thực hiện TGPL gặp gỡ, tiếp xúc với người bị tạm giữ, người bị tạm giam; ghi rõ trong bản án, quyết định thông tin về người thực hiện TGPL và ý kiến, quan điểm bào chữa hoặc bảo vệ của họ; xác nhận về thời gian hoặc công việc của người thực hiện TGPL khi làm việc với các cơ quan…
6. Hội đồng phối hợp liên ngành ở trung ương và địa phương
Kế thừa quy định của Thông tư trước đây về Hội đồng phối hợp liên ngành ở trung ương và địa phương (Hội đồng), Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT (từ Điều 16 đến Điều 21) tiếp tục quy định theo hướng rõ ràng, đầy đủ hơn về các nội dung liên quan đến Hội đồng trong việc giúp lãnh đạo 06 ngành “thống nhất chỉ đạo phối hợp thực hiện TGPL trong hoạt động tố tụng”.
Ở Trung ương, Hội đồng do Bộ trưởng Bộ Tư pháp thành lập và làm Chủ tịch. Ở địa phương, Hội đồng do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập và Giám đốc Sở Tư pháp là Chủ tịch.
Nhằm thúc đẩy hiệu quả của công tác phối hợp liên ngành, Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT đã có nhiều quy định mới: (i) Sửa đổi, bổ sung thành phần Hội đồng (quy định số lượng thành viên không quá 08 người; bổ sung thành phần Phó Chủ tịch Hội đồng là Phó Giám đốc Sở Tư pháp phụ trách công tác TGPL, quy định mang tính lựa chọn thành phần thuộc Ngành Quốc phòng trong Hội đồng phối hợp liên ngành địa phương); (ii) Bổ sung thêm một số nhiệm vụ để tăng tính hiệu quả của Hội đồng; (iii) Tách bạch giữa nhiệm vụ chung của Hội đồng với nhiệm vụ của các ngành thành viên…
Trên cơ sở đó, Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT quy định các khoản kinh phí cho hoạt động của Hội đồng (do cơ quan thường trực Hội đồng lập dự toán kinh phí), các khoản kinh phí do các ngành lập cho công tác phối hợp TGPL trong tố tụng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Thông tư đã bổ sung 04 khoản kinh phí sau: Tổ chức tập huấn cho người thực hiện TGPL, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; cung cấp băng ghi âm, đĩa ghi âm, usb; in ấn sổ theo dõi vụ việc TGPL trong hoạt động tố tụng và các mẫu ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT; chi cho các hoạt động khác nhằm tăng cường hiệu quả công tác phối hợp.
Đồng thời, Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT quy định Sở Tư pháp (Trung tâm) lập dự toán cho 07 khoản kinh phí phục vụ công tác phối hợp của Hội đồng, cụ thể: (i) Sơ kết, tổng kết, kiểm tra, đánh giá, sao chụp tài liệu phối hợp về TGPL trong hoạt động tố tụng; (ii) Đặt bảng thông tin, tờ thông tin, hộp tin TGPL, tờ gấp pháp luật và các tài liệu khác có liên quan; cung cấp băng ghi âm, đĩa ghi âm hoặc usb có chứa nội dung thông tin về TGPL dạng âm thanh; (iii) In ấn sổ theo dõi vụ việc TGPL trong hoạt động tố tụng và các mẫu ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT; (iv) Tổ chức tập huấn cho thành viên Hội đồng và tổ giúp việc cho Hội đồng, người thực hiện TGPL, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; (v) Khen thưởng cho thành viên Hội đồng và thành viên tổ giúp việc cho Hội đồng; (vi) Bồi dưỡng cho thành viên Hội đồng và tổ giúp việc cho Hội đồng; (vii) Chi cho các hoạt động khác để tăng cường hiệu quả phối hợp TGPL trong hoạt động tố tụng.
Các ngành (công an, quốc phòng, tài chính, tòa án, kiểm sát) được lập dự toán cho các kinh phí, đó là: (i) Sơ kết, tổng kết, kiểm tra, đánh giá, sao chụp tài liệu phối hợp về TGPL trong hoạt động tố tụng; (ii) Tổ chức tập huấn cho người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Việc quy định trên đã bảo đảm cho các ngành thành viên Hội đồng chủ động trong việc thực hiện trách nhiệm phối hợp, thúc đẩy công tác phối hợp hiệu quả, bảo đảm tốt quyền được TGPL của người được TGPL.
[1]. Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKNTC-TANTC ngày 28/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng; Thông tư liên tịch số 11/2013/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 04/7/2013 hướng dẫn thực hiện một số quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng.
[2]. Các điều 71, 72, 76, 78, 83, 84 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; các điều 9, 48, 75 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các điều 19, 38, 61 Bộ luật Tố tụng hành chính năm 2015; các điều 8, 9,13 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015.
[3]. Các điều 31, 41 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
[4]. Khoản 3 Điều 3 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
[5]. Gồm Trung tâm TGPL nhà nước các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và chi nhánh của Trung tâm; tổ chức tham gia TGPL (tổ chức hành nghề luật sư và tổ chức tư vấn pháp luật ký hợp đồng hoặc đăng ký tham gia TGPL).
[6]. Gồm trợ giúp viên pháp lý, luật sư ký hợp đồng với Trung tâm và luật sư của tổ chức tham gia TGPL.
Trên cơ sở quy định của các bộ luật, luật tố tụng[2], Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017[3] với tinh thần lấy người được TGPL làm trung tâm, tăng cường khả năng tiếp cận với dịch vụ TGPL của người được TGPL, “nâng cao chất lượng TGPL” để bảo đảm “bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL”[4], Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của các ngành về phối hợp TGPL trong tố tụng, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
Trong phạm vi bài viết, tác giả đề cập đến việc phối hợp TGPL trong tố tụng theo Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT gồm: Trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ sở giam giữ, trại giam và người có thẩm quyền của các cơ quan trên với các tổ thức thực hiện TGPL[5] và người thực hiện TGPL[6] (thể hiện ở 05 nhóm hoạt động: Truyền thông về TGPL trong tố tụng; giải thích, thông báo, thông tin về TGPL; thống kê, báo cáo về công tác phối hợp; tạo điều kiện cho người thực hiện TGPL trực tại các cơ quan; một số hoạt động phối hợp khác. Trong mỗi nhóm hoạt động đều quy định rõ trách nhiệm của các bên trong công tác phối hợp để các chủ thể chủ động thực hiện nhiệm vụ, thúc đẩy hiệu quả công tác phối hợp); cơ chế phối hợp liên ngành trong việc bảo đảm quyền được TGPL của người được TGPL (Hội đồng phối hợp liên ngành về TGPL trong hoạt động tố tụng).
1. Truyền thông về trợ giúp pháp lý trong tố tụng
Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT quy định Trung tâm TGPL nhà nước thuộc Sở Tư pháp (Trung tâm) có trách nhiệm cung cấp các giấy tờ, tài liệu, hỗ trợ khác về truyền thông để các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ sở giam giữ thực hiện việc niêm yết bảng thông tin về TGPL, đặt hộp tin TGPL tại trụ sở của các cơ quan, niêm yết tờ thông tin về TGPL trong buồng tạm giữ, buồng tạm giam, tại nơi làm thủ tục tiếp nhận người bị tạm giữ, người bị tạm giam, phòng thăm gặp, phòng làm việc của người bào chữa và nơi sinh hoạt chung của người bị tạm giữ, người bị tạm giam; phát miễn phí tờ gấp pháp luật, đơn yêu cầu TGPL. Đồng thời, Trung tâm còn có trách nhiệm phối hợp thực hiện các hoạt động truyền thông và hướng dẫn về TGPL tại các đơn vị trong ngành (ví dụ: Hỗ trợ tài liệu, báo cáo viên…).
Đặc biệt, Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT bổ sung quy định: Trung tâm có trách nhiệm cung cấp băng ghi âm, đĩa ghi âm, usb hoặc phương tiện khác có chứa nội dung thông tin về TGPL dạng âm thanh và các cơ sở giam giữ có trách nhiệm phát qua các phương tiện truyền thanh tại nơi sinh hoạt chung của người bị tạm giữ, người bị tạm giam. Đây là quy định mới nhằm bảo đảm người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị can, bị cáo trong điều kiện bị giam giữ vẫn được tiếp cận thường xuyên với thông tin về TGPL để có thể sử dụng được dịch vụ này.
2. Giải thích, thông báo, thông tin về trợ giúp pháp lý
Đây là quy định mới giúp khắc phục tồn tại, hạn chế cơ bản trong việc tiếp cận với dịch vụ TGPL của người thuộc diện được TGPL là chưa có cơ chế cụ thể tạo điều kiện cho Trung tâm tiếp xúc trực tiếp với người thuộc diện được TGPL để hướng dẫn, giải thích về lợi ích của TGPL nên nhiều đối tượng do thiếu hiểu biết đã không yêu cầu TGPL dẫn đến bị bỏ sót. Đồng thời, quy định này còn cụ thể hóa các nội dung về giải thích, thông báo, hướng dẫn về TGPL tại các bộ luật, luật tố tụng, đặc biệt là Điều 71 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nhằm bảo đảm quyền được TGPL của người được TGPL.
Điều 7, Điều 8, Điều 9 Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT quy định các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thực hiện việc giải thích, thông báo, thông tin về TGPL như sau:
(i) Giải thích về quyền được TGPL
- Tại thời điểm bắt, tạm giữ người, lấy lời khai, hỏi cung bị can, lấy lời khai của người bị hại, lấy lời khai của đương sự, đương sự nộp đơn trực tiếp tại Tòa án hoặc tại thời điểm gửi thông báo thụ lý vụ án, thông báo thụ lý đơn yêu cầu, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm chuyển cho họ đọc bản thông tin về người được trợ giúp pháp lý (theo Mẫu số 01 có xác nhận của họ và được lưu hồ sơ vụ án, vụ việc). Trường hợp họ không tự đọc được thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo cho họ biết.
- Nếu họ tự nhận mình là người được TGPL thì giải thích về quyền được TGPL (kịp thời, đầy đủ, bằng ngôn ngữ dễ hiểu để họ hiểu rõ về quyền được TGPL).
- Giải thích trong tố tụng hình sự được thực hiện bằng việc cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đọc, hướng dẫn cụ thể nội dung và điền thông tin vào biên bản giải thích về quyền được TGPL miễn phí của người bị buộc tội, người bị hại, đương sự thuộc diện được TGPL (theo Mẫu số 02 và được lưu tại hồ sơ vụ án); giải thích trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính do người tiến hành tố tụng thực hiện.
(ii) Thông báo, thông tin về TGPL (phân chia theo tố tụng hình sự và tố tụng dân sự, hành chính)
- Trong tố tụng hình sự chia làm 03 trường hợp:
+ Thông báo: Trường hợp người bị buộc tội, người bị hại, đương sự tự nhận mình là người được TGPL và có yêu cầu TGPL thì thông báo (theo Mẫu số 03, ghi vào biên bản tố tụng và lưu tại hồ sơ vụ án) cho Trung tâm, chi nhánh để cử người thực hiện TGPL hoặc kiểm tra diện người được TGPL để cử người thực hiện TGPL; đối với người bị bắt, người bị tạm giữ còn phải thông báo ngay bằng điện thoại.
+ Thông tin: Trường hợp người bị buộc tội, người bị hại, đương sự tự nhận mình là người được TGPL và chưa có yêu cầu TGPL thì thông tin (theo Mẫu số 04) cho Trung tâm, chi nhánh biết để thực hiện việc kiểm tra diện người được TGPL, cử người thực hiện TGPL hoặc thông tin lại.
+ Chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội thuộc diện được TGPLtheo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì đề nghị Trung tâm, chi nhánh cử ngay người thực hiện TGPL bào chữa cho họ (theo Mẫu số 03).
- Trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính: Việc thông báo, thông tin được thực hiện như thông báo, thông tin trong tố tụng hình sự, tuy nhiên việc thông báo không phải ghi vào biên bản tố tụng.
Ngoài ra, tại Điều 10 và Điều 11 Thông tư liên tịch sô 10/2018/TTLT quy định cơ sở giam giữ, trại giam và người có thẩm quyền của các cơ quan trên cũng có trách nhiệm thực hiện việc giải thích, thông báo, thông tin về TGPL theo quy định tại Điều 7 Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT.
Nếu như trước đây, người thuộc diện được TGPL do thiếu hiểu biết về TGPL (nghĩ rằng TGPL có thể mất tiền, không hiểu lợi ích của việc được TGPL...) mà từ chối sử dụng dịch vụ này dẫn đến việc họ không có người bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong quá trình tố tụng, thì nay, với quy định mới tại Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT, người thuộc diện được TGPL chỉ cần thể hiện nguyện vọng “có yêu cầu” TGPL hoặc “chưa có yêu cầu” TGPL (thay cho việc “không có yêu cầu” TGPL) thì dù trong trường hợp họ “chưa có yêu cầu”, Trung tâm cũng sẽ chủ động tiếp cận, giải thích để họ hiểu và quyết định có sử dụng quyền được TGPL hay không. Với cơ chế này, nếu được thực thi nghiêm túc, sẽ không bỏ sót đối tượng thực sự có nhu cầu TGPL.
Khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT bổ sung quy định trách nhiệm của Trung tâm, chi nhánh khi nhận được thông báo, thông tin để tăng tính chủ động trong phối hợp và tiếp cận đối tượng, cụ thể:
- Khi nhận được thông báo thì cử người thực hiện TGPL trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo. Nếu vụ việc thuộc trường hợp thụ lý ngay thì cử ngay người thực hiện TGPL cho người được TGPL.
- Khi nhận được thông báo, thông tin thì kiểm tra diện người được TGPL đối với người bị buộc tội, người bị hại, đương sự để cử người thực hiện TGPL nếu họ là người được TGPL và có yêu cầu TGPL; hoặc thông tin lại cho cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chuyển đến biết nếu họ không thuộc diện được TGPL hoặc không có yêu cầu TGPL.
3. Thống kê, báo cáo về công tác phối hợp
Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT quy định Trung tâm có trách nhiệm cung cấp sổ theo dõi vụ việc TGPL trong hoạt động tố tụng theo Mẫu số 05 (Điều 3) và các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ sở giam giữ có trách nhiệm thực hiện thống kê vào sổ (Điều 8, Điều 10). Đây là quy định mới nhằm khắc phục tồn tại hiện nay là chưa thống kê được số liệu đối tượng thuộc diện được TGPL, từ đó dẫn tới việc khó nắm bắt được nhu cầu TGPL. Số liệu thống kê thể hiện rõ số lượng người được TGPL trên số đối tượng thuộc diện được TGPL và đối tượng do các ngành thụ lý, tiếp nhận. Từ đó, đánh giá chính xác, hiệu quả giải thích, thông báo, thông tin về TGPL, khả năng cung cấp dịch vụ TGPL và tránh bỏ lọt đối tượng thuộc diện được TGPL.
4. Tạo điều kiện cho người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại các cơ quan
Khoản 9 Điều 8 Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT quy định: “Khuyến khích cơ quan điều tra, Tòa án các cấp tạo điều kiện cho người thực hiện TGPL trực tại các cơ quan này phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương để người được TGPL biết và sử dụng dịch vụ TGPL kịp thời”. Đây là quy định tạo hướng đi mới, góp phần khắc phục tồn tại đó là: Do không có điều kiện tiếp cận với TGPL mà nhiều đối tượng thuộc diện được TGPL chưa yêu cầu được TGPL, vì thế không bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Quy định trên không chỉ giúp người được TGPL thuận lợi tiếp cận và yêu cầu TGPL mà còn giúp người thực hiện TGPL chủ động trong công tác phối hợp, tiếp cận người được TGPL để cung cấp dịch vụ TGPL. Đây là quy định mang tính chất “khuyến khích” (nhằm hướng tới các cơ quan tiến hành tố tụng và tổ chức thực hiện TGPL tại địa phương có đủ điều kiện) thực hiện để bảo đảm tốt nhất quyền được TGPL của các đối tượng. Tuy nhiên, để thực hiện được điều này, Sở Tư pháp (cụ thể là Trung tâm) phải có sự chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ với các thành viên của Hội đồng phối hợp liên ngành địa phương để lựa chọn cơ quan, đơn vị phù hợp (nơi có cơ sở vật chất bảo đảm, có nhiều vụ việc tố tụng…).
5. Một số hoạt động phối hợp khác
Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT cũng quy định về một số hoạt động phối hợp khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL như: Đăng ký bào chữa, đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; thông báo trước về thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra, lịch xét xử cho tổ chức thực hiện TGPL và người thực hiện TGPL; tạo điều kiện thuận lợi cho người thực hiện TGPL gặp gỡ, tiếp xúc với người bị tạm giữ, người bị tạm giam; ghi rõ trong bản án, quyết định thông tin về người thực hiện TGPL và ý kiến, quan điểm bào chữa hoặc bảo vệ của họ; xác nhận về thời gian hoặc công việc của người thực hiện TGPL khi làm việc với các cơ quan…
6. Hội đồng phối hợp liên ngành ở trung ương và địa phương
Kế thừa quy định của Thông tư trước đây về Hội đồng phối hợp liên ngành ở trung ương và địa phương (Hội đồng), Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT (từ Điều 16 đến Điều 21) tiếp tục quy định theo hướng rõ ràng, đầy đủ hơn về các nội dung liên quan đến Hội đồng trong việc giúp lãnh đạo 06 ngành “thống nhất chỉ đạo phối hợp thực hiện TGPL trong hoạt động tố tụng”.
Ở Trung ương, Hội đồng do Bộ trưởng Bộ Tư pháp thành lập và làm Chủ tịch. Ở địa phương, Hội đồng do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập và Giám đốc Sở Tư pháp là Chủ tịch.
Nhằm thúc đẩy hiệu quả của công tác phối hợp liên ngành, Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT đã có nhiều quy định mới: (i) Sửa đổi, bổ sung thành phần Hội đồng (quy định số lượng thành viên không quá 08 người; bổ sung thành phần Phó Chủ tịch Hội đồng là Phó Giám đốc Sở Tư pháp phụ trách công tác TGPL, quy định mang tính lựa chọn thành phần thuộc Ngành Quốc phòng trong Hội đồng phối hợp liên ngành địa phương); (ii) Bổ sung thêm một số nhiệm vụ để tăng tính hiệu quả của Hội đồng; (iii) Tách bạch giữa nhiệm vụ chung của Hội đồng với nhiệm vụ của các ngành thành viên…
Trên cơ sở đó, Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT quy định các khoản kinh phí cho hoạt động của Hội đồng (do cơ quan thường trực Hội đồng lập dự toán kinh phí), các khoản kinh phí do các ngành lập cho công tác phối hợp TGPL trong tố tụng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Thông tư đã bổ sung 04 khoản kinh phí sau: Tổ chức tập huấn cho người thực hiện TGPL, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; cung cấp băng ghi âm, đĩa ghi âm, usb; in ấn sổ theo dõi vụ việc TGPL trong hoạt động tố tụng và các mẫu ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT; chi cho các hoạt động khác nhằm tăng cường hiệu quả công tác phối hợp.
Đồng thời, Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT quy định Sở Tư pháp (Trung tâm) lập dự toán cho 07 khoản kinh phí phục vụ công tác phối hợp của Hội đồng, cụ thể: (i) Sơ kết, tổng kết, kiểm tra, đánh giá, sao chụp tài liệu phối hợp về TGPL trong hoạt động tố tụng; (ii) Đặt bảng thông tin, tờ thông tin, hộp tin TGPL, tờ gấp pháp luật và các tài liệu khác có liên quan; cung cấp băng ghi âm, đĩa ghi âm hoặc usb có chứa nội dung thông tin về TGPL dạng âm thanh; (iii) In ấn sổ theo dõi vụ việc TGPL trong hoạt động tố tụng và các mẫu ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT; (iv) Tổ chức tập huấn cho thành viên Hội đồng và tổ giúp việc cho Hội đồng, người thực hiện TGPL, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; (v) Khen thưởng cho thành viên Hội đồng và thành viên tổ giúp việc cho Hội đồng; (vi) Bồi dưỡng cho thành viên Hội đồng và tổ giúp việc cho Hội đồng; (vii) Chi cho các hoạt động khác để tăng cường hiệu quả phối hợp TGPL trong hoạt động tố tụng.
Các ngành (công an, quốc phòng, tài chính, tòa án, kiểm sát) được lập dự toán cho các kinh phí, đó là: (i) Sơ kết, tổng kết, kiểm tra, đánh giá, sao chụp tài liệu phối hợp về TGPL trong hoạt động tố tụng; (ii) Tổ chức tập huấn cho người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Việc quy định trên đã bảo đảm cho các ngành thành viên Hội đồng chủ động trong việc thực hiện trách nhiệm phối hợp, thúc đẩy công tác phối hợp hiệu quả, bảo đảm tốt quyền được TGPL của người được TGPL.
ThS. Cù Thu Anh
ThS. Nguyễn Thị Pha
Cục Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp
ThS. Nguyễn Thị Pha
Cục Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp
[1]. Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKNTC-TANTC ngày 28/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng; Thông tư liên tịch số 11/2013/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 04/7/2013 hướng dẫn thực hiện một số quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng.
[2]. Các điều 71, 72, 76, 78, 83, 84 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; các điều 9, 48, 75 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các điều 19, 38, 61 Bộ luật Tố tụng hành chính năm 2015; các điều 8, 9,13 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015.
[3]. Các điều 31, 41 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
[4]. Khoản 3 Điều 3 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
[5]. Gồm Trung tâm TGPL nhà nước các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và chi nhánh của Trung tâm; tổ chức tham gia TGPL (tổ chức hành nghề luật sư và tổ chức tư vấn pháp luật ký hợp đồng hoặc đăng ký tham gia TGPL).
[6]. Gồm trợ giúp viên pháp lý, luật sư ký hợp đồng với Trung tâm và luật sư của tổ chức tham gia TGPL.