1. Đặt vấn đề
Hiện nay, cán bộ, công chức cấp xã (CBCCCX) đảm nhận giải quyết một khối lượng công việc rất lớn, đa dạng và phức tạp, liên quan đến mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng ở cơ sở. Đội ngũ này có vai trò hết sức quan trọng đối với hiệu lực, hiệu quả của bộ máy chính quyền cấp xã nói riêng và hệ thống chính trị nói chung. Nếu CBCCCX được bố trí đủ số lượng và có chất lượng sẽ góp phần vào việc thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị - xã hội ở địa phương.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong một thời kỳ dài việc bố trí đội ngũ nhân sự này chưa thật sự bảo đảm yêu cầu về số lượng và chất lượng. Do đó, tiếp tục sắp xếp, tinh gọn lại đội ngũ này là một trong những vấn đề quan trọng đã và đang được đặt ra nhất là trong bối cảnh đẩy mạnh thực hiện cải cách hành chính, cải cách chế độ công vụ ở nước ta hiện nay. Bài viết trên cơ sở phân tích một số quy định liên quan đến CBCCCX, từ đó, tác giả đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện các quy định này để làm cơ sở cho việc thực hiện có hiệu quả chính sách đối với CBCCCX dôi dư.
2. Chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã dôi dư
Về thuật ngữ “dôi dư”, theo Từ điển Tiếng Việt thì “dôi” là “nhiều hơn mức cần thiết hoặc mức bình thường”[1], thực chất “dôi” đồng nghĩa với “dư”. Đối với nguồn nhân lực thì “dôi dư” được hiểu là tình trạng nhân sự nhiều hơn mức cần thiết nên phải tiến hành tinh giản để bảo đảm sự phù hợp. Đối với người lao động, hiện nay, trong một số quy định của pháp luật đã có đề cập đến. Đó là quy định giải quyết lao động dôi dư sau cổ phần hóa đối với doanh nghiệp nhà nước. Theo đó, “người lao động dôi dư là người có tên trong danh sách lao động của đơn vị sự nghiệp công lập chuyển đổi (đang làm việc hoặc đang chờ việc) tại thời điểm chuyển sang công ty cổ phần, đơn vị sự nghiệp công lập chuyển đổi đã tìm mọi biện pháp nhưng không bố trí được việc làm”[2]. Đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thì một số quy định của pháp luật cũng đã đề cập đến, ví dụ như, quy định về tinh giản biên chế...
Như vậy, CBCCCX dôi dư là trường hợp CBCCCX không thể được bố trí tiếp tục làm CBCCCX tại đơn vị hành chính cấp xã đó khi có sự thay đổi liên quan đến đơn vị hành chính cấp xã, thông thường sự thay đổi này chính là do việc sáp nhập đơn vị hành chính cấp xã hoặc thay đổi về khung số lượng bố trí ít hơn thực tế số CBCCCX tại thời điểm đó hoặc do thực hiện các chủ trương chính sách liên quan đến quá trình cải cách.
Hiện nay, ở nước ta việc dôi dư cán bộ, công chức, viên chức nói chung, CBCCCX nói riêng, xuất phát từ việc triển khai một số chủ trương, chính sách sau:
- Triển khai Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả (Nghị quyết số 18-NQ/TW) và Nghị quyết 19/NQ-TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập (Nghị quyết 19/NQ-TW).
- Triển khai Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả (Nghị quyết số 56/2017/QH14).
- Triển khai Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 24/12/2018 của Bộ Chính trị về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã (Nghị quyết số 37-NQ/TW) và thực hiện việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã theo Nghị quyết số 653/2019/UBTVQH14, ngày 12/3/2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc xắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã trong giai đoạn 2019 - 2021 (Nghị quyết số 653/2019/UBTVQH14).
- Triển khai Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ, sửa đổi một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố (Nghị định số 34/2019/NĐ-CP).
- Triển khai Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 15/3/2018 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả (Nghị quyết số 22-NQ/TW).
Ngoài ra, trong giai đoạn hiện nay, việc tiến hành cải cách, đổi mới theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, việc triển khai cải cách hành chính (đặc biệt là triển khai cải cách chế độ công vụ) theo Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ về ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030 (Nghị quyết số 76/NQ-CP) cũng đặt ra những yêu cầu phải tinh gọn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, trong đó có đội ngũ CBCCCX. Việc triển khai đồng loạt các chủ trương, chính sách này đã tạo sức ép giải quyết đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức dôi dư.
Hiện nay, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số 656/VPCP-TCCV ngày 13/3/2020 của Văn phòng Chính phủ; sau khi có ý kiến thống nhất với Ban Tổ chức Trung ương và các bộ, ngành trung ương có liên quan, Bộ Nội vụ đã ban hành Hướng dẫn số 2605/HD-BNV ngày 25/5/2020 hướng dẫn việc sắp xếp tổ chức, bố trí và thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức dôi dư, trong đó có CBCCCX, theo đó:
- CBCCCX thuộc diện dôi dư do sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thì căn cứ theo từng đối tượng mà thực hiện các chế độ, chính sách theo quy định của Nghị định số 26/2015/NĐ-CP ngày 09/3/2015 của Chính phủ quy định chế độ, chính sách đối với cán bộ không đủ điều kiện về tuổi tái cử, tái bổ nhiệm giữ các chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (Nghị định số 26/2015/NĐ-CP); Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính phủ về chính sách tinh giản biên chế (Nghị định số 108/2014/NĐ-CP), Nghị định số 113/2018/NĐ-CP ngày 31/8/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính phủ về chính sách tinh giản biên chế (Nghị định số 113/2018/NĐ-CP), Nghị định số 143/2020/NĐ-CP ngày 10/12/2020 của chính phủ sửa đổi, bổ sung mội số điều của Nghị định số 108/2014/NĐ-CP và Nghị định số 113/2018/NĐ-CP (Nghị định số 143/2020/NĐ-CP), Nghị định số 46/2010/NĐ-CP ngày 27/4/2010 của Chính phủ quy định về thôi việc và thủ tục nghỉ hưu đối với công chức (Nghị định số 46/2010/NĐ-CP).
- Thực hiện bảo lưu các chế độ, chính sách (như tiền lương, phụ cấp lãnh đạo,...) đối với những người được tiếp tục làm việc nhưng không giữ các chức vụ bầu cử trước đây cho đến hết nhiệm kỳ bầu cử (đối với những người giữ chức vụ lãnh đạo do bầu cử) hoặc hết thời hạn bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo (đối với những người giữ chức vụ lãnh đạo do bổ nhiệm). Cụ thể, đang đảm nhận các vị trí lãnh đạo của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã và người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội cấp xã khi thôi giữ chức vụ lãnh đạo hoặc giữ chức vụ có phụ cấp chức vụ thấp hơn trước khi sắp xếp nhưng vẫn là cán bộ, công chức tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị ở đơn vị hành chính mới hình thành sau sắp xếp hoặc ở các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã khác thì được bảo lưu lương và phụ cấp chức vụ đến hết nhiệm kỳ 2016 - 2021 (đối với cán bộ lãnh đạo của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân), nhiệm kỳ đương nhiệm (đối với người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội cấp xã). Trường hợp nhiệm kỳ bầu cử còn dưới 06 tháng thì được bảo lưu 06 tháng. Sau khi hết thời hạn được bảo lưu, thì lương và phụ cấp chức vụ (nếu có) được thực hiện theo chức vụ, chức danh hiện giữ hoặc giải quyết nghỉ chế độ theo quy định. CBCCCX tự nguyện xin nghỉ việc thì giải quyết các chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật hiện hành.
- Việc giải quyết chế độ, chính sách đối với công chức cấp xã giữ chức danh Trưởng Công an xã nhằm thực hiện chủ trương bố trí công an chính quy đảm nhiệm các chức danh công an xã thực hiện theo quy định của Luật Công an nhân dân năm 2018, Pháp lệnh Công an xã năm 2008, Nghị định số 73/2009/NĐ-CP ngày 07/9/2009 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Công an xã (Nghị định số 73/2009/NĐ-CP), Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố (Nghị định số 34/2019/NĐ-CP), Thông tư số 13/2019/TT-BNV ngày 06/11/2019 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố (Thông tư số 13/2019/TT-BNV), Công văn số 1157/BNV-CQĐP ngày 06/3/2020 của Bộ Nội vụ về việc giải quyết một số vướng mắc, khó khăn khi thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW, Nghị quyết số 653/2019/UBTVQH14, Nghị định số 34/2019/NĐ-CP và hướng dẫn của Bộ Công an về việc chi trả trợ cấp một lần cho công an xã theo Nghị định số 73/2009/NĐ-CP ngày 7/9/2009 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh Công an xã. Ngoài những chế độ, chính sách nêu trên, trên cơ sở cân đối ngân sách địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp ban hành chính sách hỗ trợ đối với đội ngũ dôi dư tại các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thực hiện sắp xếp.
Như vậy, có thể khái quát một số chính sách đối với cán bộ, công chức nói chung, CBCCCX dôi dư như sau:
Thứ nhất, thực hiện tinh giản biên chế
Tinh giản biên chế chính là việc đánh giá, phân loại, đưa ra khỏi biên chế những người dôi dư, không đáp ứng yêu cầu công việc, không thể tiếp tục bố trí sắp xếp công tác khác và giải quyết chế độ, chính sách đối với những người thuộc diện tinh giản biên chế.
Hiện nay, việc tinh giản biên chế được thực hiện theo quy định Nghị định số 108/2014/NĐ-CP; Nghị định số 113/2018/NĐ-CP; Nghị định số 143/2020/NĐ-CP ngày 10/12/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2014/NĐ-CP và Nghị định số 113/2018/NĐ-CP ngày 31/8/2018[3].
Đối với CBCCCX thuộc diện tinh giản biên chế trong trường hợp dôi dư do rà soát, sắp xếp lại tổ chức bộ máy, nhân sự; dôi dư do cơ cấu lại vị trí việc làm, nhưng không thể bố trí, sắp xếp được việc làm khác; chưa đạt trình độ đào tạo theo tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ quy định; có chuyên ngành đào tạo không phù hợp với vị trí việc làm hiện đang đảm nhiệm... theo Điều 6 Văn bản hợp nhất số 01/VBHN-BNV ngày 22/01/2021 của Bộ Nội vụ thì sẽ được giải quyết chính sách tinh giản biên chế (Văn bản hợp nhất số 01/VBHN-BNV). Theo đó, chính sách này bao gồm chính sách về hưu trước tuổi[4]; chính sách chuyển sang làm việc tại các tổ chức không hưởng lương thường xuyên từ ngân sách nhà nước[5]; chính sách thôi việc (bao gồm chính sách thôi việc ngay và chính sách thôi việc sau khi đi học nghề[6]), ngoài ra, nếu là cán bộ cấp xã còn được hưởng chính sách được bảo lưu phụ cấp chức vụ lãnh đạo đang hưởng đến hết thời hạn giữ chức vụ bổ nhiệm hoặc hết nhiệm kỳ bầu cử[7].
Thứ hai, giải quyết chế độ thôi việc và giải quyết cho nghỉ hưu trước tuổi, nghỉ công tác chờ đủ tuổi nghỉ hưu
Việc giải quyết chính sách thôi việc cho công chức và công chức cấp xã theo quy định Luật Cán bộ, công chức và Nghị định số 46/2010/NĐ-CP. Đối với cán bộ và cán bộ cấp xã giải quyết cho nghỉ hưu trước tuổi; nghỉ công tác chờ đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Nghị định số 26/2015/NĐ-CP ngày 09/3/2015 của Chính phủ chế độ, chính sách đối với cán bộ không đủ điều kiện về tuổi tái cử, tái bổ nhiệm giữ các chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ.
Thứ ba, thực hiện điều chuyển công tác
CBCCCX dôi dư có thể xem xét điều chuyển, bổ sung cho các xã, phường, thị trấn thuộc địa bàn cấp huyện hoặc ở địa bàn cấp huyện khác thuộc tỉnh hoặc chuyển thành công chức từ cấp huyện trở lên.
3. Một số kiến nghị
Để có thể thực hiện có hiệu quả các chính sách đối với CBCCCX dôi dư thì điều tiên quyết là phải hoàn thiện các quy định có liên quan đến CBCCCX để làm cơ sở xác định CBCCCX đủ hay dư, từ đó xác định CBCCCX dôi dư và thực hiện chính sách cho đội ngũ này. Do đó, tác giả có một số kiến nghị:
Một là, hoàn thiện quy định về tiêu chuẩn cán bộ, công chức cấp xã để làm cơ sở xác định tiêu chuẩn đánh giá, phân loại CBCCCX dôi dư.
Để thực hiện được chính sách cho CBCCCX dôi dư, điều quan trọng hàng đầu phải hoàn thiện quy định về tiêu chuẩn CBCCCX. Chính tiêu chuẩn này là căn cứ để xem xét, lựa chọn bố trí CBCCCX và giải quyết chế độ cho CBCCCX dôi dư.
Trước đây, khi chưa ban hành Luật Cán bộ, công chức thì tiêu chuẩn của cán bộ, công chức cấp xã được quy định thống nhất theo Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc ban hành tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn (Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV). Sau đó, Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 06/2012/TT-BNV ngày 30/10/2012 bãi bỏ quy định đối với công chức cấp xã tại Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004. Ngày 06/11/2019, Bộ Nội vụ tiếp tục ban hành Thông tư số 13/2019/TT-BNV bãi bỏ Thông tư số 06/2012/TT-BNV. Như vậy, hiện nay, tiêu chuẩn của cán bộ cấp xã vẫn thực hiện theo Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV và tiêu chuẩn công chức cấp xã thực hiện theo quy định của Thông tư số 13/2019/TT-BNV.
Tuy nhiên, quy định về tiêu chuẩn cán bộ, công chức cấp xã hiện nay vẫn còn những bất cập đặc biệt Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV quy định tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ cấp xã nhất là đối với các chức danh Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy; Chủ tịch Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp xã thấp hơn so với quy định hiện hành về tiêu chuẩn công chức cấp xã. Thiết nghĩ các chức danh cán bộ cấp xã (thuộc khối Đảng và chính quyền) là các chức danh lãnh đạo, điều hành hoạt động của Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã. Do đó, người đảm nhận các chức danh này phải thường xuyên chỉ đạo, điều hành, do đó phải có tiêu chuẩn cao hơn công chức cấp xã mới bảo đảm sự phù hợp.
Bên cạnh đó, Luật Hộ tịch năm 2014 quy định công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã “có trình độ từ trung cấp luật trở lên và đã được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch”[8]. Tuy nhiên, Thông tư số 13/2019/TT-BNV quy định chung công chức cấp xã có “trình độ chuyên môn nghiệp vụ tốt nghiệp đại học trở lên của ngành đào tạo phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng chức danh công chức cấp xã”[9]. Chính vì vậy, trong quá trình thực hiện, Bộ Tư pháp có ý kiến đề nghị xem xét, xử lý nội dung cho phù hợp với Luật Hộ tịch liên quan đến tiêu chuẩn trình độ chuyên môn của chức danh công chức tư pháp - hộ tịch. Do đó, ngày 24/5/2021, Bộ Nội vụ có ý kiến gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, trong đó “đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo các cơ quan chuyên môn áp dụng tiêu chuẩn trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đối với chức danh công chức tư pháp - hộ tịch ở cấp xã theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 72 Luật Hộ tịch năm 2014, cụ thể: “Có trình độ từ trung cấp luật trở lên và đã được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch”[10]. Thiết nghĩ bất cập này cần phải được sửa đổi thống nhất bằng văn bản quy phạm pháp luật chứ không thể thực hiện bằng công văn hành chính.
Theo quan điểm của tác giả, việc quy định công chức cấp xã trong đó có công chức tư pháp - hộ tịch phải có trình độ đại học trở lên trong bối cảnh hiện nay là điều cần thiết. Hơn thế nữa, Thông tư số 13/2019/TT-BNV cũng đã quy định “Đối với công chức đã tuyển dụng trước khi Thông tư này có hiệu lực thi hành mà chưa đạt đủ tiêu chuẩn theo quy định tại khoản 1 Điều này thì trong thời hạn 05 năm kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành phải đáp ứng đủ theo quy định”[11]. Quy định này vừa bảo đảm giải quyết thực tế về trình độ chuyên môn hiện tại của công chức cấp xã và định hướng cho việc phải học tập nâng cao trình độ chuyên môn của công chức cấp xã đáp ứng yêu cầu công việc và nhiệm vụ được giao.
Do đó, cần sửa đổi quy định về tiêu chuẩn của cán bộ, công chức cấp xã đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới. Đối với cán bộ cấp xã, tác giả kiến nghị sớm ban hành quy định mới về tiêu chuẩn của cán bộ cấp xã thay thế quy định trong Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV. Thiết nghĩ trình độ chuyên môn của các chức vụ cán bộ cấp xã thuộc Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp xã phải bằng hoặc cao hơn trình độ chuyên môn của các chức danh công chức cấp xã. Do đó, cần quy định các chức vụ cán bộ cấp xã phải có trình độ chuyên môn từ đại học trở lên. Điều này hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ[12].
Đối với công chức cấp xã, cần rà soát các quy định của pháp luật chuyên ngành có quy định liên quan đến công chức cấp xã để quy định thống nhất tiêu chuẩn của công chức cấp xã. Cụ thể, đối với trường hợp chức danh công chức tư pháp - hộ tịch tác giả kiến nghị sửa đổi quy định tại điểm a khoản 2 Điều 72 Luật Hộ tịch năm 2014. Theo đó, Luật cần quy định tiêu chuẩn của chức danh công chức tư pháp - hộ tịch là phải có trình độ đại học trở lên. Hoặc có thể bãi bỏ quy định này vì các quy định về công chức cấp xã đã có quy định về trình độ chuyên môn của công chức cấp xã, do đó, không nhất thiết Luật Hộ tịch phải quy định lại vấn đề này. Ngày 23/5/2022, Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 04/2022/TT-BNV sửa đổi điểm c khoản 1 Điều 1 Thông tư số 13/2019/TT-BNV hướng dẫn quy định về cán bộ, công chức cấp xã, trong đó quy định tốt nghiệp đại học trở lên của ngành đào tạo phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng chức danh công chức cấp xã, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Việc sửa đổi này phù hợp với Luật Hộ tịch, nhưng theo quan điểm tác giả là chưa thật sự phù hợp với xu thế phát triển công chức hiện nay, vì quy định này dễ dẫn đến một số chức danh công chức không nỗ lực nâng cao trình độ chuyên môn của mình từ đại học trở lên.
Hai là, hoàn thiện quy định xác định cán bộ cấp xã và công chức cấp xã và việc bố trí số lượng CBCCCX.
Hoàn thiện quy định xác định cán bộ cấp xã và công chức cấp xã sẽ giúp việc bố trí nhân sự cụ thể đảm nhận các vị trí chức vụ, chức danh công chức cấp xã. Đồng thời, việc bố trí số lượng CBCCCX thực chất là quá trình định biên cho cấp xã, điều này có ý nghĩa trong việc giải quyết nhu cầu thực tiễn về nhân sự của cấp xã. Đây là cơ sở để xem xét số lượng CBCCCX của các đơn vị hành chính cấp xã là đủ, thiếu hay dôi dư.
Do đó, trước hết, tác giả đề nghị sửa đổi khái niệm cán bộ cấp xã và công chức cấp xã trong Luật Cán bộ, công chức. Việc sửa đổi này là cơ sở để xác định các chức vụ cán bộ cấp xã và chức danh công chức cấp xã. Đồng thời, không liệt kê chức vụ Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy trong khái niệm mà thay vào đó nên quy định “giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Đảng ủy” vì thực tế quy định hiện hành của Đảng đã xác định Thường trực Đảng ủy cấp xã gồm: Bí thư và các Phó Bí thư, hơn nữa trong Luật Cán bộ, công chức cũng đã có điều khoản liệt kê cụ thể các chức vụ cán bộ cấp xã. Do đó, thiết nghĩ không nhất thiết khi định nghĩa về cán bộ cấp xã lại liệt kê như quy định hiện hành. Ngoài ra, theo quy định hiện hành, ở cấp xã có 11 chức vụ cán bộ cấp xã gồm: 02 chức danh lãnh đạo Đảng ủy; 02 chức danh lãnh đạo Hội đồng nhân dân; 02 chức danh lãnh đạo Ủy ban nhân dân; 05 chức danh lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội cấp xã. Các tổ chức chính trị - xã hội cấp xã có vai trò quan trọng trong hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, xét về tính chất đặc thù công việc, không cần thiết phải quy định người đứng đầu tất cả các tổ chức chính trị - xã hội cấp xã là cán bộ cấp xã. Theo đó, có thể nghiên cứu quy định đây là chức danh “những người hoạt động không chuyên trách cấp xã” nằm trong tổng số lượng người hoạt động không chuyên trách cấp xã.
Do đó, tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) như sau: “Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Đảng ủy, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”[13].
Hiện nay, Chính phủ quy định khung số lượng cán bộ, công chức cấp xã tương ứng với loại đơn vị hành chính cấp xã. Theo đó, đơn vị hành chính cấp xã loại 1: tối đa 23 người; Loại 2: tối đa 21 người; Loại 3: tối đa 19 người[14]. Trên cơ sở quy định khung này thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định bố trí số lượng cán bộ, công chức cấp xã bằng hoặc thấp hơn quy định trên, bảo đảm đúng với chức danh theo quy định và phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Tuy nhiên, thực tế cho thấy hiện nay, cấp xã có 11 chức vụ cán bộ cấp xã[15] (có từ 11 đến 12 người làm việc); có 07 chức danh công chức cấp xã (có từ 8 đến 11 người làm việc (trong đó có Trưởng Công an và Chỉ huy trưởng quân sự). Đặc biệt, đối với những đô thị, nơi có quy mô dân số đông thì việc bố trí số lượng CBCCCX như trên là chưa phù hợp. Như vậy, số công chức cấp xã ít và ít hơn số lượng cán bộ cấp xã. Trong khi đó, các chức danh công chức cấp xã (trừ Trưởng Công an và Chỉ huy trưởng quân sự, chỉ còn lại 05 chức danh) đều phải thực hiện nhiệm vụ tham mưu đa ngành, đa lĩnh vực cho Ủy ban nhân dân cấp xã trong thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước thuộc chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp xã trên tất cả các lĩnh vực. Chính quyền cấp xã là cấp gần dân và trực tiếp giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân ở địa phương. Vì vậy, khối lượng công việc của công chức cấp xã đảm nhận là khá lớn. Tuy nhiên, chính quy định này dẫn đến thực tế hiện nay số lượng công chức cấp xã quá ít so với số lượng cán bộ cấp xã, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện các nhiệm vụ của công chức cấp xã. Do đó, tác giả kiến nghị Chính phủ cần cân nhắc quy định về khung số lượng CBCCCX có tính tính đặc thù về đô thị, nông thôn, đặc biệt là ở những đơn vị hành chính cấp xã đông dân như: Thành phố Hồ Chí Minh cần bố trí số lượng CBCCCX hợp lý hơn.
Ba là, sửa đổi, bổ sung quy định xét chuyển CBCCCX thành công chức cấp huyện, cấp tỉnh.
Một trong chính sách quan trọng khi sắp xếp CBCCCX dôi dư là xem xét điều chuyển, bổ sung cho các xã, phường, thị trấn thuộc địa bàn cấp huyện hoặc ở địa bàn cấp huyện khác thuộc tỉnh hoặc chuyển thành công chức từ cấp huyện trở lên. Do đó, cần nghiên cứu ban hành quy định liên thông cán bộ, công chức cấp xã, sửa đổi, bổ sung quy định xét chuyển cán bộ, công chức cấp xã thành công chức cấp huyện, cấp tỉnh. Quy định cán bộ, công chức cấp xã được xem xét tiếp nhận vào làm công chức cấp huyện, cấp tỉnh nên được quy định thành cán bộ, công chức cấp xã là đối tượng được xem xét chuyển thành công chức cấp huyện, cấp tỉnh. Quy định này nên tách biệt với các trường hợp được tiếp nhận vào làm công chức.
Bên cạnh đó, nên nghiên cứu sửa đổi thủ tục xét chuyển cán bộ, công chức cấp xã thành công chức cấp huyện, cấp tỉnh. Thay vì quy định Hội đồng kiểm tra, sát hạch “kiểm tra về tiêu chuẩn, điều kiện, văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận của người được đề nghị tiếp nhận theo yêu cầu của vị trí việc làm cần tuyển”[16] nên quy định việc kiểm tra các tiêu chuẩn, điều kiện này cho cơ quan tham mưu về công tác quản lý cán bộ, công chức (Phòng Nội vụ; Ban Tổ chức Huyện ủy/Quận ủy ở cấp huyện) (Sở Nội vụ; Ban Tổ chức Tỉnh ủy/thành ủy ở cấp tỉnh). Bởi lẽ, việc kiểm tra các tiêu chuẩn về văn bằng, chứng chỉ… do các cơ quan tham mưu quản lý cán bộ, công chức thực hiện là phù hợp còn Hội đồng kiểm tra sát hạch chỉ thực hiện kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ thông qua việc phỏng vấn, sát hạch.
Bốn là, bổ sung quy định phân cấp cho chính quyền địa phương cấp tỉnh quyết định và bắt buộc phải ban hành chính sách hỗ trợ cho CBCCCX dôi dư.
Thực tế cho thấy, các chính sách đối với CBCCCX dôi dư đều do trung ương quy định thống nhất. Điều này có ưu điểm tạo ra sự đồng bộ, thống nhất trong giải quyết chính sách cho CBCCCX dôi dư. Tuy nhiên, sẽ hợp lý hơn nếu bên cạnh chính sách này trung ương cho phép chính quyền cấp tỉnh quyết định và bắt buộc phải ban hành chính sách hỗ trợ cho CBCCCX dôi dư. Do đó, tác giả kiến nghị bổ sung vào Nghị định số 34/2019/NĐ-CP quy định “trên cơ sở cân đối ngân sách địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm trình Hội đồng nhân dân cùng cấp ban hành chính sách hỗ trợ đối với đội ngũ dôi dư”. Điều này thể hiện trách nhiệm của chính quyền cấp tỉnh phải cố gắng cân đối để có chính sách hỗ trợ cho CBCCCX dôi dư chứ không phải chỉ là “khuyến khích” ban hành.
CBCCCX là một phận quan trọng, không tách rời đội ngũ cán bộ, công chức. Đội ngũ này là lực lượng trực tiếp đưa chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ tại địa phương. Tuy nhiên, quá trình cải cách tất yếu dẫn đến việc sắp xếp lại đội ngũ CBCCCX. Do đó, việc phải giải quyết chế độ, chính sách cho đội ngũ này là điều phải làm. Để có thể thực hiện chính sách một cách khách quan, khoa học, công bằng, hợp lý rất cần hoàn thiện các quy định liên quan để làm cơ sở cho việc xác định CBCCCX dôi dư và giải quyết những chế độ, chính sách./.
ThS. Nguyễn Đặng Phương Truyền
Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia tại Thành phố Hồ Chí Minh
[1] Viện Ngôn ngữ học (2011), Từ điển tiếng Việt phổ thông, Nxb. Phương Đông, tr. 236.
[2] Xem: Thông tư số 35/2016/TT-BLĐTBXH ngày 25/10/2016 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
[3] Xem: Văn bản hợp nhất số 01/VBHN-BNV ngày 22/01/2021 của Bộ Nội vụ hợp nhất các nghị định này.
[4] Xem: Điều 8 Văn bản hợp nhất số 01/VBHN-BNV ngày 22/01/2021 của Bộ Nội vụ hợp nhất các nghị định này.
[5] Xem: Điều 9 Văn bản hợp nhất số 01/VBHN-BNV.
[6] Xem: Điều 10 Văn bản hợp nhất số 01/VBHN-BNV.
[7] Xem: Điều 11 Văn bản hợp nhất số 01/VBHN-BNV.
[8] Xem: Điểm a khoản 2 Điều 72 Luật Hộ tịch năm 2014.
[9] Xem: Điểm c khoản 1 Điều 1 Thông tư số 13/2019/TT-BNV.
[10] Xem: Công văn số 2363/BNV-CQĐP ngày 24/5/2021 của Bộ Nội vụ.
[11] Xem: Khoản 3 Điều 1 Thông tư số 13/2019/TT-BNV.
[12] Nghị quyết cũng đề ra mục tiêu đến năm 2030: “Đối với cán bộ chuyên trách cấp xã: 100% có trình độ cao đẳng, đại học và được chuẩn hóa về lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng công tác”.
[13] Xem: Khoản 3 Điều 4 Luật Cán bộ công chức hiện hành định nghĩa “Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.
[14] Xem: Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 34/2019/NĐ-CP.
[15] Xem: Khoản 2 Điều 61 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi, bổ sung 2019).
[16] Xem: Điểm b khoản 4 Điều 18 Nghị định số 138/2020/NĐ-CP ngày 27/11/2020 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức.