Thứ tư 18/06/2025 12:27
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thực tiễn và giải pháp bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của Tòa án nhân dân trong tố tụng hình sự Việt Nam

Tóm tắt: Chiến lược cải cách tư pháp và Hiến pháp năm 2013 đã đề ra yêu cầu đẩy mạnh công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đồng thời bảo đảm độc lập của Tòa án trong thực hiện quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự được coi là giá trị cơ bản. Để thực hiện được yêu cầu này, khắc phục những bất cập, hạn chế hiện hành, cần có những giải pháp đồng bộ hoàn thiện thể chế để bảo đảm nguyên tắc “độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong mối quan hệ với các quyền lực nhà nước khác; bảo đảm về nguồn nhân lực thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự và các yếu tố bổ trợ liên quan.

Abstract: The strategy of Justice Reform and the Constitution of 2013 raise a requirement to strengthen the build-up of a socialist rule of law state and at the same time to ensure the independence of courts in implementing judicial power and judicial power in criminal proceedings to be considered as fundamental value. In implementing this requirement and overcoming existing shortcomings, limitations, there should be comprehensive solutions of completing institution in order to ensure the principle" independent and solely obeying the law" in the relationship with other power state institutions and to ensure human resources for implementing judicial power in criminal proceedings and concerned assisting factors.

Việc ghi nhận quyền tư pháp tại Hiến pháp năm 2013 là sự đổi mới có tính bước ngoặt, đặt tiền đề cho những cải cách sâu rộng của hệ thống Tòa án nhân dân để từng bước đảm đương thực hiện quyền tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49-NQ/TW). Trong đó, “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” và “Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định”[1]. Về ý nghĩa thực tiễn, quy định này của Hiến pháp năm 2013 đã mở đường cho việc nhận thức và tổ chức lại hệ thống tài phán tư pháp ở nước ta hiện nay qua việc ban hành Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Theo đó, hệ thống tài phán tư pháp được thành lập theo thẩm quyền xét xử bao gồm: (i) Tòa án nhân dân tối cao; (ii) Tòa án nhân dân cấp cao; (iii) Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; (iv) Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; (v) Tòa án quân sự[2].

Thực tế thời gian qua, việc bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của Tòa án nhân dân trong tố tụng hình sự (TTHS) được thực hiện theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 trên các nội dung: (i) Ban hành án lệ[3]; (ii) Bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử nói chung (trong đó có xét xử các vụ án hình sự)[4] và tổng kết kinh nghiệm xét xử các vụ án hình sự (VAHS); (iii) Xét xử các VAHS. Thực tiễn thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự ở nước ta được thể hiện trên những mặt sau:

1. Thực tiễn bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của Tòa án nhân dân trong tố tụng hình sự

1.1. Công tác ban hành án lệ

Có thể thấy, án lệ có vai trò là một công cụ hữu hiệu để “điền vào chỗ trống” của các bộ luật, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế và dân sự. Án lệ không chỉ để giải quyết các vấn đề mà luật chưa điều chỉnh, mà nó còn có vai trò quan trọng trong việc đưa ra những dự báo cho tương lai của điều chỉnh pháp luật.

Mặc dù đã có cơ sở pháp lý về thẩm quyền ban hành án lệ nhưng phải đến ngày 06/4/2016, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao mới thông qua 06 án lệ đầu tiên, trong đó lĩnh vực hình sự có 01 án lệ. Việc công nhận và áp dụng án lệ vào xét xử các vụ án trong đó có xét xử VAHS là một bước ngoặt lớn trong việc mở rộng nguồn của pháp luật và khắc phục lỗ hổng trong các văn bản quy phạm pháp luật; tạo cơ sở áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử theo quan điểm đã được thể hiện trong nội dung án lệ của Tòa án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, số lượng án lệ trong hình sự (01 án lệ) là quá ít so với thực tế đòi hỏi trong khi pháp luật hình sự không thiếu những lỗ hổng gây khó khăn cho các nhà áp dụng luật. Nguyên nhân của tình trạng này là do: (i) Truyền thống hệ thống pháp luật của các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam chỉ thừa nhận hình thức, nguồn pháp luật duy nhất là văn bản quy phạm pháp luật nên trong thời gian dài chúng ta ít quan tâm đến vấn đề án lệ; (ii) Việc ban hành cơ sở pháp lý công nhận án lệ của Tòa án nhân dân tối cao còn chậm; (iii) Lần đầu tiên thực hiện chức năng ban hành án lệ còn nhiều lúng túng; (iv) Tâm lý và thói quen ban hành và sử dụng án lệ chưa nhiều.

1.2. Công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật hình sự, tổng kết kinh nghiệm xét xử các vụ án hình sự

Cơ sở pháp lý của hoạt động hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và tổng kết kinh nghiệm xét xử được quy định trong Hiến pháp và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân: “Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử”[5]. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013 về thẩm quyền thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định Tòa án nhân dân có nhiệm vụ “bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử” và Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ “tổng kết thực tiễn xét xử của các Tòa án, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử”[6]; Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành nghị quyết hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật[7]; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chỉ đạo việc tổng kết thực tiễn xét xử, xây dựng và ban hành Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử; tổng kết phát triển án lệ, công bố án lệ[8].

Như vậy, chủ thể trực tiếp chịu trách nhiệm tổng kết kinh nghiệm xét xử và hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật chính là Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Với nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định và đồng thời là yêu cầu khách quan của thực tiễn, Tòa án nhân dân tối cao phải thường xuyên tổng kết thực tiễn xét xử và hướng dẫn Tòa án các cấp áp dụng thống nhất pháp luật. Trong các báo cáo tổng kết hàng năm, nhiệm vụ này luôn được tổng kết và đánh giá một cách khách quan, toàn diện[9.]

Tuy nhiên, số văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành trong 05 năm (2011 - 2015) còn khá khiêm tốn so với đòi hỏi của các vấn đề thực tiễn công tác xét xử VAHS. Nguyên nhân của tình trạng trên là do đội ngũ cán bộ khoa học xét xử còn thiếu và yếu; việc tổng kết thực tiễn công tác xét xử trong toàn ngành còn hạn chế nên chưa kịp thời phát hiện để đề xuất những vướng mắc, làm cơ sở cho việc ban hành các nghị quyết hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật của Hội đồng Thẩm phán. Bên cạnh đó, việc ban hành các văn bản hướng dẫn luôn gắn với việc tổng kết các vấn đề vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn xét xử của Toà án các cấp, nên đòi hỏi phải có thời gian, vật chất nhất định; đồng thời, theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải có sự tham gia, phối hợp chặt chẽ của các cơ quan, tổ chức hữu quan khác. Do đó, những trường hợp chậm nhận được ý kiến góp ý từ phía cơ quan, tổ chức hữu quan cũng ảnh hưởng tới tiến độ ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Tòa án nhân dân tối cao. Việc tổng kết thực tiễn xét xử chưa được đổi mới và thực hiện một cách hiệu quả. Một số vướng mắc trong thực tiễn xét xử còn chậm được hướng dẫn; việc trao đổi nghiệp vụ giữa Tòa án nhân dân tối cao với các Tòa án cấp dưới trong một số trường hợp còn chậm. Công tác phối hợp trong hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, nhất là giữa các đơn vị chức năng của Tòa án nhân dân tối cao trong một số trường hợp chưa thực sự chặt chẽ, nên hiệu quả chưa cao[10].

1.3. Công tác xét xử vụ án hình sự

Trong 05 năm trở lại đây (2011 - 2015), Ngành Tòa án đã xét xử một số lượng rất lớn các VAHS bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tỷ lệ giải quyết luôn đạt trên 90%. Trong xét xử, Tòa án kết hợp nguyên tắc thẩm vấn và tranh tụng tại các phiên tòa cùng với việc nâng cao trách nhiệm, nâng cao trình độ chuyên môn cho Thẩm phán. Nhiều vụ án trọng điểm được tháo gỡ và xét xử tạo sự đồng tình ủng hộ trong dân, nhiều chứng cứ có giá trị chứng minh sự thật khách quan của vụ án được phát hiện, thu thập tại phiên tòa, nhiều vấn đề được xem xét, đánh giá khách quan, toàn diện, nhiều vấn đề mới phát sinh như khởi tố vụ án, khởi tố thêm bị can, nhiều nội dung chưa đồng tình với quan điểm của Viện kiểm sát trong cáo trạng dẫn đến việc trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, truy tố, đồng thời dưới sự chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo Tòa án các cấp nên công tác giải quyết, xét xử các VAHS trong thời gian qua tiếp tục có sự chuyển biến tích cực.

Tòa án ngày càng chủ động và tích cực thực hiện các thẩm quyền được pháp luật quy định, đặc biệt kể từ khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực thi hành, Tòa án thể hiện ngày càng cụ thể hơn vai trò quyết định trong việc thực hiện quyền tư pháp, thể hiện rõ sự không quá lệ thuộc vào các kết luận điều tra của cơ quan điều tra và khắc phục tình trạng “án tại hồ sơ”.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện quyền tư pháp trong TTHS của Tòa án cũng còn nhiều hạn chế, biểu hiện ở những vấn đề cơ bản sau:

- Việc nghiên cứu hồ sơ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử chưa đầy đủ.

- Đánh giá không đầy đủ, toàn diện hoặc không chính xác các chứng cứ, tài liệu về vụ án có trong hồ sơ và các chứng cứ, tài liệu được bổ sung trước khi xét xử và tại phiên tòa.

- Nhận thức và áp dụng không đúng các quy định của pháp luật hình sự, dẫn đến: Định tội danh sai; xác định điều khoản của Bộ luật Hình sự không đúng (xác định sai khung hình phạt); quyết định hình phạt quá nặng, quá nhẹ hoặc cho hưởng án treo không đúng; sai lầm trong việc giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS; không nắm vững các quy định trong phần chung Bộ luật Hình sự.

- Thừa nhận giá trị chứng minh của chứng cứ, tài liệu thu thập bằng các hành vi trái pháp luật của cơ quan điểu tra, dẫn đến sai lệch vụ án.

- Cơ chế hoạt động và hoạt động xét xử của Tòa án cũng bộc lộ những bất cập ở việc sự tham gia của Hội thẩm trong Hội đồng xét xử chủ yếu mang tính hình thức, chất lượng xét xử không cao.

Nguyên nhân của tình trạng trên có thể nêu ra là:

- Về nguyên nhân khách quan: Chưa có một mô hình trong thực tế về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật tư pháp hình sự nói riêng phải xây dựng, hoàn thiện trong điều kiện vừa tìm tòi, vừa rút kinh nghiệm nên không thể tránh khỏi những hạn chế, bất cập. Việc vận dụng linh hoạt, khoa học, nhuần nhuyễn giữa triết lý chung trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam (tuân thủ nguyên tắc tập quyền, tập trung dân chủ, quyền lực Nhà nước là thống nhất có sự kiểm soát chặt chẽ trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp) với nguyên tắc đặc thù của Tòa án (nguyên tắc độc lập xét xử) đòi hỏi phải có thời gian, trong khi chúng ta vẫn đang tiếp tục đổi mới và hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy nhà nước…

- Về nguyên nhân chủ quan: Vấn đề nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ và chưa thống nhất về vị trí, vai trò của Tòa án trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đặc biệt là trong thực hiện quyền tư pháp. Tranh tụng tại phiên tòa được coi là khâu đột phá của cải cách tư pháp nhưng chưa được nghiên cứu xây dựng quy trình, cơ chế cụ thể. Công tác định hướng, nghiên cứu lý luận, dự báo tình hình tội phạm chưa theo kịp với yêu cầu thực tiễn[11]. Năng lực tổ chức triển khai, điều kiện nguồn nhân lực (Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân) còn hạn chế, chưa ngang tầm với đòi hỏi của thực hiện quyền tư pháp trong TTHS. Công tác lãnh đạo của Đảng về công tác tư pháp và đường lối xét xử hình sự còn nhiều bất cập, lúng túng trong việc tìm ra phương thức lãnh đạo của Đảng thực sự phù hợp với tính chất hoạt động của Tòa án thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước (trong đó có cơ quan thực hiện quyền tư pháp) như Hiến pháp năm 2013 đã quy định và bảo đảm sự độc lập trong xét xử của Tòa án…

2. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay

Thứ nhất, bảo đảm về pháp luật TTHS, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án, đặc biệt nguyên tắc “độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong tổ chức và hoạt động của Tòa án; các nguyên tắc đặc thù trong TTHS như: Nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án… phải được cụ thể hóa, chi tiết hóa trong pháp luật TTHS.

Hiến pháp năm 2013 đã làm rõ tính pháp quyền của nền tư pháp nước ta khi thừa nhận Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, sứ mệnh của Tòa án nhân dân được xác định là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Để bảo đảm định hướng quan trọng và nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tư pháp của Tòa án nhân dân trong TTHS, cần hoàn thiện tổng thể những cơ sở pháp lý liên quan như là: Tổ chức hợp lý hệ thống xét xử; tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm đúng đội ngũ cán bộ tư pháp - xét xử nói chung, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân nói riêng; bổ sung, hoàn thiện các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động xét xử VAHS, khắc phục những quy định chồng chéo, những quy định trái với những nguyên tắc chung…

Tòa án cần được xác định rõ hơn phạm vi thẩm quyền thực hiện quyền tư pháp và cơ chế độc lập tương đối của quyền tư pháp trong phạm vi quyền lực nhà nước là sự phân công trong chính thể quyền lực thống nhất mới có thể thực hiện được việc kiểm soát quyền lập pháp, quyền hành pháp bởi quyền tư pháp.

Thứ hai, bảo đảm về cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát thực hiện quyền tư pháp trong TTHS, trong đó giao cho Tòa án nhân dân tối cao quyền giải thích pháp luật thay vì giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội như hiện nay.

Cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện mối quan hệ phân công, phối hợp, chế ước và kiểm soát giữa Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân với Tòa án nhân dân trong việc thực hiện quyền tư pháp, bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử VAHS của Tòa án cũng chính là bảo đảm cho tư pháp được độc lập, các quốc gia thành viên của Công ước các quyền chính trị và dân sự đã ghi nhận nguyên tắc này trong Hiến pháp với việc xác định Tòa án là chủ thể duy nhất thực hiện quyền tư pháp trong TTHS và xác định cụ thể tính chất, quyền lực, nội dung của thực hiện quyền tư pháp trong TTHS. Tiếp tục nghiên cứu cơ chế tài phán, xử lý các vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo vệ Hiến pháp.

Thứ ba, bảo đảm về nguồn nhân lực thực hiện quyền tư pháp trong TTHS. Đó là sự bảo đảm các yếu tố cho Thẩm phán như: Cụ thể hóa tiêu chuẩn và quy trình tuyển dụng, bổ nhiệm; bảo đảm ổn định nhiệm kỳ, chế độ lương tương xứng và cơ chế phân công thụ lý án rõ ràng; thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng về trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cho đội ngũ Thẩm phán; bảo đảm cơ chế kỷ luật Thẩm phán. Bên cạnh đó điều chỉnh hợp lý chế định, vai trò của Hội thẩm trong xét xử VAHS.

Thứ tư, trao quyền trực tiếp cho Tòa án nhân dân tối cao lập ngân sách và trực tiếp trình Quốc hội phê chuẩn; bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động thực hiện quyền tư pháp của Tòa án.

Thứ năm, bảo đảm các yếu tố bổ trợ thực hiện quyền tư pháp trong TTHS như: Luật sư, giám định tư pháp, công chứng.

Bản thân thực hiện quyền tư pháp trong TTHS chỉ có thể tồn tại, phát huy được hiệu lực của nó với sự hỗ trợ, bổ trợ của các thiết chế khác. Chính vì vậy, các giải pháp bảo đảm trực tiếp cho thực hiện quyền tư pháp trong TTHS phải được tiến hành với việc bảo đảm cho các chế định bổ trợ tư pháp.

Thứ sáu, bảo đảm yếu tố nhận thức từ đội ngũ lãnh đạo, toàn xã hội về thực hiện quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp trong TTHS Việt Nam. Nhận thức đầy đủ, đúng về quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp nói chung và trong TTHS nói riêng có ý nghĩa quan trọng góp phần bảo đảm cho quá trình thực hiện quyền tư pháp phát huy hiệu quả. Muốn vậy, từ giới lãnh đạo đến các tầng lớp nhân dân phải nhận thức sâu sắc về vấn đề này.

ThS. Phạm Thị Như Quỳnh

Trường Cán bộ quản lý văn hóa, thể thao và du lịch

Tài liệu tham khảo:

[1]. Xem: Khoản 1 và 2 Điều 102 Hiến pháp năm 2013.

[2]. Điều 3 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

[3]. Điểm c Điều 22 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

[4]. Khoản 3 Điều 20 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

[5]. Khoản 3 Điều 4 Hiến pháp năm 2013.

[6]. Khoản 3 Điều 20 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

[7]. Khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

[8]. Khoản 5 Điều 27 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

[9]. Số liệu tổng kết trong Báo cáo tổng kết năm của Tòa án nhân dân tối cao trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2015, với các số liệu cụ thể như sau: Hội đồng Thẩm phán Tổ chức Tòa án nhân dân tối cao ban hành được: 09 nghị quyết hướng dẫn về điều luật cụ thể của Bộ luật Hình sự, án treo và án phí, lệ phí; Hội đồng Thẩm phán phối hợp với các bộ, ngành liên quan ban hành hàng chục thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự.

[10]. Xem: Báo cáo tổng kết công tác các năm 2012, 2013, 2014 của Tòa án của nhân dân tối cao.

[11]. Như là: Các vấn đề về tư pháp, thực hiện quyền tư pháp, vai trò của Tòa án trong giai đoạn xét xử hình sự, mô hình tố tụng tranh tụng…

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm