Chủ nhật 22/06/2025 12:35
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Tiếp tục hoàn thiện chế định Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay

Chế định Thừa phát lại được hình thành và phát triển từ rất lâu và Cộng hòa Pháp chính là nơi bắt nguồn, là cái nôi cho sự phát triển, hành nghề Thừa phát lại trên thế giới hiện nay. Ở Việt Nam, chế định này đã tồn tại từ thời kỳ phong kiến nhưng chính thức được thừa nhận ở nước ta từ thời Pháp thuộc.

1. Vài nét về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay
Tuy nhiên, từ khi có Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về “Cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng” do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký và vì nhiều lý do khác nhau mà sau năm 1950 (ở miền Bắc) và sau năm 1975 (ở miền Nam), Nhà nước ta không tiếp tục duy trì chế định Thừa phát lại. Chế định Thừa phát lại đã chính thức quay trở lại nước ta kể từ năm 2009 theo định hướng xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự và trên tinh thần Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 của Quốc hội về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự. Việc tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại được thực hiện thông qua Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh (Nghị định số 61/2009/NĐ-CP).

Nhận định được vai trò quan trọng của Thừa phát lại và để tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện chế định Thừa phát lại được dễ hiểu, nhất quán, đồng bộ, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP (Nghị định số 135/2013/NĐ-CP). Theo Nghị định số 61/2009/NĐ-CP và Nghị định số 135/2013/NĐ-CP, Thừa phát lại là người được Nhà nước bổ nhiệm, hoạt động độc lập, được tiến hành thực hiện bốn công việc chủ yếu sau: (i) Tống đạt giấy tờ theo yêu cầu của Tòa án hoặc cơ quan thi hành án dân sự; (ii) Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức; (iii) Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự; (iv) Tổ chức thi hành án các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự. Thông qua các hoạt động của Thừa phát lại đã ngày càng chứng minh và khẳng định được địa vị pháp lý cũng như vai trò của Thừa phát lại trong hoạt động tư pháp, trong xã hội hóa thi hành án dân sự. Đồng thời, hoạt động của Thừa phát lại đã góp phần bảo đảm tốt hơn, tối ưu hơn quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, của tổ chức trong đời sống dân sự, trong quan hệ với cơ quan nhà nước và trong các hoạt động tố tụng; góp phần giảm thiểu công việc cho Tòa án, cho cơ quan thi hành án, để từ đó, giảm bớt tình trạng án tồn đọng. Ngoài ra, Thừa phát lại còn góp phần xây dựng và tạo ra môi trường hành lang pháp lý rõ ràng và đảm bảo cho các giao dịch dân sự, kinh tế được thực hiện theo đúng pháp luật nhằm thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển ngày càng vững mạnh.

Nghị quyết số 107/2015/QH14 ngày 26/11/2015 của Quốc hội về thực hiện chế định Thừa phát lại được thông qua tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII. Nghị quyết này cũng đã chấm dứt việc thí điểm và cho thực hiện chính thức chế định Thừa phát lại trong phạm vi cả nước kể từ ngày 01/01/2016. Hiện nay, cả nước có 53 văn phòng Thừa phát lại trên tổng số 13 địa phương đã thực hiện chế định Thừa phát lại với tổng số nhân lực đang làm việc là 643 người, trong đó, có 134 Thừa phát lại, 295 thư ký nghiệp vụ và 214 nhân viên khác. Tính đến ngày 30/9/2015, các văn phòng Thừa phát lại đã tống đạt được 939.544 văn bản, lập 42.911 vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án 885 việc, trực tiếp tổ chức thi hành án 378 vụ việc, đạt tổng doanh thu là 135 tỷ 862 triệu 202 nghìn đồng. Trong các mảng công việc, hoạt động tống đạt chiếm tỷ trọng lớn với 939.544 văn bản được tống đạt và doanh thu gần 70 tỷ đồng (chiếm 51% tổng doanh thu); tiếp đến là hoạt động lập vi bằng với 42.911 vi bằng được lập và doanh thu gần 59 tỷ đồng (chiếm 43% tổng doanh thu). Hoạt động xác minh điều kiện thi hành án và trực tiếp tổ chức thi hành án chiếm tỷ trọng nhỏ với 885 việc xác minh và 378 vụ việc trực tiếp tổ chức thi hành án, doanh thu của 02 loại công việc trên mới đạt gần 8 tỷ đồng chiếm 6% tổng doanh thu[1].

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động Thừa phát lại còn gặp nhiều khó khăn như: Nhận thức của một số cơ quan, cán bộ và xã hội còn nhiều hạn chế, chưa nhận thức đúng và đầy đủ về mục đích, ý nghĩa, vai trò và chức năng của chế định Thừa phát lại; đội ngũ Thừa phát lại chưa được đào tạo kỹ về chuyên môn, chưa có nhiều kinh nghiệm nghề nghiệp; còn có sự chậm trễ trong hoạt động xây dựng pháp luật, cơ sở pháp lý cao nhất cho việc thực hiện chế định Thừa phát lại hiện nay là Nghị quyết của Quốc hội mà Nghị quyết chỉ quy định mang tính chất chủ trương, do đó, trong quá trình áp dụng pháp luật, thực hiện công việc Thừa phát lại đã gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng và vướng mắc. Cụ thể là đang làm phát sinh những bất cập trong quy định về hoạt động lập vi bằng; trong việc quy định về hoạt động tống đạt của Thừa phát lại; trong tổ chức thi hành án dân sự...

2. Một số giải pháp nhằm nâng cao kết quả tổ chức thực hiện chế định về Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, triển khai xây dựng Luật Thừa phát lại

Việc thực hiện chế định Thừa phát lại có ý nghĩa quan trọng, góp phần thực hiện tốt chủ trương về xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Trong đó, Nghị định số 61/2009/NĐ-CP và Nghị định số 135/2013/NĐ-CP là những văn bản pháp luật quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại trong thời gian thực hiện thí điểm.

Sau khi chế định Thừa phát lại được chính thức thực hiện trên cả nước thông qua Nghị quyết số 107/2015/QH13 của Quốc hội, tác giả thấy rằng, việc xây dựng Luật Thừa phát lại là một nhiệm vụ cần thiết, cấp thiết và tối quan trọng cần được triển khai. Bởi vì, hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh và hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại chỉ bao gồm: Nghị quyết của Quốc hội, nghị định của Chính phủ và các thông tư hướng dẫn. Trong khi đó, các hoạt động của Thừa phát lại phát triển ngày càng mạnh mẽ và phổ biến ở nhiều địa phương. Hiện nay, đã có 53 văn phòng Thừa phát lại ở 13 tỉnh, thành và các tỉnh, thành khác cũng đang đẩy mạnh quá trình xây dựng đề án để tiến hành tổ chức thực hiện. Do đó, trong quá trình áp dụng pháp luật, thực hiện công việc đã gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Vì vậy, để góp phần đảm bảo hoạt động Thừa phát lại có hiệu quả, đúng pháp luật thì cần thiết ban hành Luật Thừa phát lại.

Khi xây dựng Luật Thừa phát lại thì cần chú ý đến việc xây dựng theo hướng mở rộng quyền hạn cho Thừa phát lại, để đảm bảo sự bình đẳng giữa Thừa phát lại với chấp hành viên. Trên cơ sở đó, có những hướng dẫn áp dụng Luật Thừa phát lại hợp lý và có giá trị thực tiễn cao; chú trọng quan tâm các vấn đề như: Quy định rõ tiêu chuẩn Thừa phát lại và văn phòng Thừa phát lại; về trình tự, thủ tục tống đạt văn bản, lập vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án, tổ chức thi hành án dân sự… Có như vậy, dịch vụ Thừa phát lại mới thực sự đi vào đời sống xã hội và mang lại hiệu quả đúng như mục đích[2].

Thứ hai, phổ biến, tuyên truyền về Thừa phát lại

Thừa phát lại là chế định mới nên việc triển khai thực hiện còn gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, để người dân, tổ chức, doanh nghiệp cũng như cán bộ có những hiểu biết về pháp luật, có sự đồng thuận, ủng hộ, tin tưởng và sử dụng dịch vụ Thừa phát lại thì khi tuyên truyền, phổ biến văn bản pháp luật và hoạt động của Thừa phát lại cần phải có sự nghiên cứu chọn lọc, sâu rộng, xúc tích và phải thực sự dễ hiểu. Đồng thời, phải nắm bắt được nhu cầu tìm hiểu và lựa chọn những hình thức phù hợp để tuyên truyền, phổ biến pháp luật về chủ chương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phổ biến về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, vai trò và ý nghĩa của Thừa phát lại đến người dân, doanh nghiệp, chính quyền các cấp và tổ chức có liên quan. Việc tuyên truyền có thể được thực hiện thông qua việc tổ chức các buổi tọa đàm, hội thảo hay thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như internet, phóng sự... hoặc phát hành những ấn phẩm về Thừa phát lại. Bên cạnh đó, cần có sự phối chặt chẽ, kịp thời và đồng bộ giữa các bộ, ngành liên quan và các địa phương với những nội dung phù hợp thông qua các kênh tuyên truyền. Đồng thời, phải tăng cường trách nhiệm, năng lực tổ chức thực hiện và sự phối hợp của các cơ quan trong việc thực hiện chế định Thừa phát lại.

Thứ ba, tổ chức đào tạo nghề Thừa phát lại

Để đảm bảo hoạt động của Thừa phát lại đúng pháp luật, hiệu quả, mang lại những tác động tích cực cho người dân và xã hội, hạn chế sai phạm trong quá trình hoạt động, vì vậy, cần phải phối, kết hợp với các cơ quan, ban, ngành để tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ làm Thừa phát lại; rà soát sát sao đội ngũ này, để từ đó, có những giải pháp đào tạo, bồi dưỡng bổ sung, khắc phục những thiếu hụt về kiến thức, kỹ năng hành nghề. Đồng thời, phải thường xuyên thanh tra, kiểm tra hoạt động của các văn phòng Thừa phát lại để kịp thời nắm bắt những khó khăn và có những phương án, biện pháp khắc phục phù hợp nhất.

Lê Thị Thương

Công ty Luật Việt Kim

Tài liệu tham khảo:

[1]. Báo cáo số 538/BC-CP ngày 19/10/2015 về tổng kết việc triển khai tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội.

[2]. Nguyễn Vinh Hưng, Dịch vụ Thừa phát lại và sự phù hợp với các điều kiện tại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 02 năm 2017.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm