Đến nay, Việt Nam đã ký kết 17 hiệp định/thỏa thuận TTTP về dân sự[1] (hiệp định TTTP) với các nước trên thế giới, đây là các văn bản pháp lý quan trọng nhằm bảo vệ các quyền nhân thân và tài sản của công dân của các bên ký kết nói chung và công dân Việt Nam ở nước ngoài nói riêng. Bên cạnh đó, kể từ ngày 01/10/2016, Việt Nam đã chính thức là thành viên của Công ước La Hay năm 1965 về tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại, trong đó, có khoảng 70 nước là thành viên của Công ước này. Điều đó cho thấy, các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh cần có sự tương trợ tư pháp quốc tế ngày càng được mở rộng và gia tăng, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam với các nước trong cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ giới thiệu về vai trò của các hiệp định song phương TTTP về dân sự và thực tiễn thực thi tại Việt Nam.
Về cơ bản, các hiệp định TTTP về dân sự có nội dung các quy định tương đối giống nhau, điều chỉnh hai mảng quan hệ, đó là TTTP giữa các cơ quan tư pháp các nước ký kết và các quy tắc chọn pháp luật áp dụng giải quyết xung đột luật cũng như quy tắc xác định thẩm quyền của cơ quan tư pháp trong việc giải quyết các vấn đề dân sự, lao động, hôn nhân, gia đình và hình sự. Tuy nhiên, các hiệp định được ký kết trong khoảng thời gian khác nhau nên bối cảnh quốc tế cũng khác nhau và có những thay đổi cơ bản.
Sau khi Nhà nước ban hành Hiến pháp năm 1992, Việt Nam tiếp tục ký kết hiệp định TTTP với các nước Ba Lan, Lào, Trung Quốc, Nga, Pháp, Ukraina, Belarus và Mông Cổ. Một số hiệp định được ký kết trong giai đoạn này bắt đầu có những thay đổi lớn về phạm vi điều chỉnh như: Hiệp định TTTP với Trung Quốc chỉ điều chỉnh các vấn đề TTTP giữa các cơ quan tư pháp hai nước và thống nhất các quy tắc xác định thẩm quyền xét xử mà không quy định về vấn đề chọn pháp luật áp dụng giải quyết xung đột; Hiệp định TTTP với Pháp chỉ điều chỉnh các vấn đề dân sự[2].
Kể từ khi Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 được ban hành, Việt Nam đã ký kết hiệp định TTTP với An-giê-ri, Cam-pu-chia, Ca-dắc-xtan và Đài Loan. Phạm vi tương trợ quy định tại các hiệp định TTTP này đã thay đổi so với các hiệp định mà Việt Nam đã ký kết trước đó, theo đó, hiệp định chỉ điều chỉnh vấn đề về dân sự mà không bao gồm hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù. Bên cạnh đó, các hiệp định TTTP này chỉ quy định trình tự thủ tục tương trợ tư pháp về dân sự và vấn đề về công nhận và cho hành bản án của Tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Một số nội dung cơ bản của các hiệp định TTTP[3] cụ thể như sau:
- Các hiệp định TTTP đều có các quy định chung hay điều khoản chung, quy định về sự bảo hộ pháp lý, cơ quan thực hiện và cơ quan đầu mối thực hiện TTTP, cách thức liên hệ, phạm vi các vấn đề tương trợ, nội dung và hình thức của yêu cầu TTTP, việc thực hiện ủy thác tư pháp (UTTP), triệu tập người làm chứng hoặc người giám định, cách thức tống đạt giấy tờ, từ chối tương trợ và chi phí liên quan đến việc thực hiện tương trợ.
- Về nguyên tắc, mỗi bên ký kết chịu các chi phí thực hiện TTTP phát sinh trên lãnh thổ nước mình. Một số hiệp định có quy định bên được yêu cầu sẽ thanh toán chi phí bất thường hoặc chi phí thủ tục tố tụng đặc biệt khác.
- Về chế độ bảo hộ pháp lý, công dân của bên ký kết này được hưởng trên lãnh thổ của bên ký kết kia sự bảo hộ pháp lý đối với các quyền nhân thân và tài sản như công dân của bên ký kết kia. Quy định này nhằm bảo hộ công dân của mỗi bên ký kết.
- Các cơ quan thực hiện TTTP là các Tòa án và các cơ quan tư pháp khác có thẩm quyền về các vấn đề đề về dân sự. Cơ quan đầu mối về dân sự, hôn nhân, gia đình, lao động, kinh tế, thương mại ở Việt Nam là Bộ Tư pháp Việt Nam. Một số hiệp định quy định, trong quá trình thực hiện, các cơ quan tư pháp có thể liên hệ trực tiếp với nhau.
- Về nội dung và hình thức của yêu cầu TTTP, các hiệp định đều quy định phải ghi rõ và cụ thể của người được yêu cầu và nội dung cần ủy thác.
- Khi thực hiện yêu cầu TTTP, cơ quan được yêu cầu áp dụng pháp luật của nước mình.
- Đối với người làm chứng hoặc người giám định, nếu được triệu tập thì họ được hưởng sự bảo đảm an toàn cá nhân và được hưởng một khoản tiền chi phí liên quan đến tố tụng.
- Các đồ vật và tiền được chuyển giao từ lãnh thổ bên ký kết này sang lãnh thổ bên ký kết kia, cũng như cho cơ quan đại diện ngoại giao hoặc cơ quan lãnh sự của bên ký kết kia, theo pháp luật của bên ký kết nơi có cơ quan thực hiện việc chuyển giao.
- Yêu cầu về TTTP có thể bị từ chối, nếu việc thực hiện yêu cầu TTTP có thể gây phương hại đến chủ quyền, an ninh hoặc những lợi ích quan trọng khác, cũng như trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hoặc các cam kết quốc tế của bên ký kết được yêu cầu.
Như đã nêu ở trên, hiệp định song phương giữa Việt Nam với các nước về TTTP trong lĩnh vực dân sự là văn bản pháp lý quan trọng trong quan hệ quốc tế nói chung và trong hợp tác với nước ngoài về pháp luật nói riêng. Xem xét tổng quan 17 hiệp định TTTP với Việt Nam, có thể nhận thấy, vai trò của hiệp định này trong lĩnh vực TTTP về dân sự được thể hiện như sau:
- Các hiệp định TTTP là cơ sở pháp lý để các quốc gia tiến hành một cách nhanh chóng, tập trung qua đầu mối tương trợ tư pháp và có hiệu quả.
- Trình tự, thủ tục TTTP được quy định rất chặt chẽ, cụ thể trong các hiệp TTTP. Đây là cơ sở để các cơ quan tư pháp của các bên ký kết hiệp định tiến hành các hoạt động TTTP theo quy trình thống nhất. Hiệp định TTTP đặt ra nghĩa vụ cho các quốc gia ký kết yêu cầu các cơ quan tư pháp của mình thực hiện nghiêm chỉnh các thủ tục, trình tự tương trợ quy định trong hiệp định.
- Các hiệp định đều xác định rõ các cơ quan trung ương đầu mối. Việc quy định các quan trung ương đầu mối này sẽ giúp cho việc TTTP được thực hiện một cách tập trung, có thống kê, giám sát, rút kinh nghiệm và có biện pháp khắc phục những tồn tại trong quá trình thực hiện các hiệp định[4].
2. Thực tiễn thực thi tương trợ tư pháp về dân sự theo quy định của các hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự mà Việt Nam đã ký kết
Thực tiễn thi hành các hiệp định TTTP cho thấy, giữa Việt Nam và các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa cũ (như Tiệp Khắc, Cu Ba, Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, Mông Cổ, Ba Lan, Triều Tiên, Lào...) hầu như không phát sinh yêu cầu TTTP về dân sự; một số hiệp định mới có hiệu lực sau khi ban hành Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 thì cũng chưa có yêu cầu UTTP (như hiệp định với An-giê-ri). Tuy nhiên, việc thực thi của một số hiệp định với các nước có nhiều quan hệ dân sự, thương mại đã thực sự phát huy hiệu quả như: Hiệp định TTTP với Trung Quốc, Pháp; thỏa thuận TTTP với Đài Loan. Cụ thể, để thực hiện thỏa thuận TTTP với Đài Loan, hai bên đều đề xuất cơ quan trung ương (Bộ Tư pháp Việt Nam và Bộ Pháp vụ lãnh thổ Đài Loan) và cử cán bộ đầu mối để trao đổi về những vấn đề đột xuất phát sinh trong quá trình thực hiện các hồ sơ. Đồng thời, hai cơ quan trung ương cũng tổ chức định kỳ hội nghị thường niên luân phiên tại Hà Nội và Đài Bắc. Từ khi thỏa thuận có hiệu lực, hai bên đã tổ chức 06 hội nghị thường niên trao đổi trực tiếp về những vướng mắc, khó khăn trong quá trình giải quyết các hồ sơ UTTP, qua đó, đề xuất những giải pháp để tháo gỡ những khó khăn. Các cơ chế phối hợp đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các yêu cầu UTTP của hai bên đạt kết quả khả quan, đạt từ 65% đến 80% (so với 0% trước khi thỏa thuận được ký), năm sau cao hơn so với năm trước. Đồng thời, để hỗ trợ cho các cơ quan của Việt Nam thực hiện nghiêm túc thỏa thuận, Bộ Tư pháp cũng đã phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao tổ chức các lớp tập huấn về thỏa thuận cho các cán bộ trực tiếp làm công tác UTTP ở một số tỉnh, thành phố phía Nam có nhiều hoạt động UTTP với lãnh thổ Đài Loan[5].
Bên cạnh đó, các Bộ, ngành cũng đã bắt đầu thực hiện việc rà soát, đánh giá tình hình thực hiện các hiệp định TTTP đã ký kết và có hiệu lực đối với Việt Nam. Trong lĩnh vực dân sự, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Tòa án cấp tỉnh, thành phố rà soát đánh giá tình hình thực hiện 03 hiệp định TTTP (với Hungary, Pháp, Trung Quốc) để đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện hoặc để đề xuất sửa đổi, bổ sung hay đàm phán mới các hiệp định nhằm hoàn thiện và hiện đại hóa cơ chế hợp tác về TTTP giữa hai bên.
Theo quy định của Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, phạm vi TTTP về dân sự giữa Việt Nam và nước ngoài bao gồm: (i) Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến TTTP về dân sự; (ii) Triệu tập người làm chứng, người giám định; (iii) Thu thập, cung cấp chứng cứ; (iv) Các yêu cầu TTTP khác về dân sự. Tuy nhiên, một số hiệp định TTTP mà Việt Nam đã ký kết trong những năm gần đây có bổ sung quy định phạm vi TTTP bao gồm: Công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, công nhận và thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài. Do thực tiễn thực hiện TTTP về dân sự chủ yếu tập trung vào việc tống đạt giấy tờ và thu thập chứng cứ nên bài viết này chỉ đề cập đến nội dung thực hiện UTTP về dân sự. Việc UTTP về dân sự gồm hai yêu cầu chính sau:
2.1. Yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự của nước ngoài gửi các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam thực hiện
Trong số các UTTP quốc tế về dân sự mà phía nước ngoài yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện thì đa số tập trung các yêu cầu về tống đạt giấy tờ liên quan chủ yếu đến tống đạt giấy tờ, tài liệu trong các vụ việc về hôn nhân và gia đình, yêu cầu cấp dưỡng sau khi ly hôn, yêu cầu về quyền nuôi con sau khi ly hôn, các vụ việc thương mại và lao động, chiếm khoảng 90% trên tổng số hồ sơ UTTP theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đề nghị cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện.
Báo cáo hàng năm của Chính phủ trình Quốc hội về công tác TTTP cho thấy, kết quả tống đạt mà các cơ quan thẩm quyền của Việt Nam thực hiện cho phía nước ngoài còn hạn chế, trung bình đạt khoảng trên 50%. Mặc dù, các hiệp định mà Việt Nam đã ký kết có quy định về cách thức liên hệ, tham vấn trực tiếp hoặc một số hiệp định đã ký kết trong thời gian gần đây bổ sung quy định về việc định kỳ rà soát hiệp định hoặc tổ chức họp thường niên nhưng tất cả công việc này chưa được thực hiện thường xuyên do yếu tố khách quan và chủ quan. Đối với Đài Loan, tỷ lệ hồ sơ do hai bên thực hiện có kết quả cao nhất trong số 17 nước đã ký kết hiệp định TTTP, tuy nhiên, kết quả mà Việt Nam thực hiện cho nước bạn vẫn thấp hơn so với kết quả phía Đài Loan thực hiện. Điều này phản ánh một thực tế là các Tòa án Việt Nam chưa thực sự nghiêm túc trong việc thực hiện yêu cầu UTTP của phía nước ngoài. Nguyên nhân có thể là các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam chưa phối hợp tích cực để sát sao, đôn đốc và nhắc nhở các Tòa án địa phương nghiêm túc thực hiện. Tuy nhiên, cũng có một số vướng mắc trong quá trình thực hiện hồ sơ UTTP của phía nước ngoài như: Địa chỉ sai, không có bản dịch tiếng Việt...
Kết quả UTTP năm 2016 của một số nước như sau[6]:
- Về nội dung yêu cầu (tính tổng số UTTP theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài): Dân sự (4%), hôn nhân, gia đình (92,3%), kinh doanh, thương mại (3,6%), thi hành án (0%) và các vấn đề khác (0%).
- Về số lượng hồ sơ và kết quả thực hiện: Lãnh thổ Đài Loan (165/325); Cộng hòa Pháp (16/36); Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (61/133); Cộng hòa Séc (5/11); Liên bang Nga (1/5).
2.2. Yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự của Việt Nam gửi các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thực hiện
Các yêu cầu thực hiện UTTP của Việt Nam đề nghị cơ quan thẩm quyền nước ngoài thực hiện tập trung nhiều vào hồ sơ ủy thác tống đạt giấy tờ và lấy lời khai đương sự trong vụ án ly hôn, khoảng 80% trên tổng số hồ sơ yêu cầu mà Việt Nam gửi ra nước ngoài. Đồng thời, các yêu cầu liên quan đến việc lấy lời khai đương sự đang cư trú ở nước ngoài trong các vụ kiện dân sự như: Thừa kế, chia tài sản, tranh chấp đất đai, đòi bồi thường thiệt hại, đơn phương chấm dứt hợp đồng, thay đổi họ tên, yêu cầu tiền cấp dưỡng nuôi con… cũng có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên, việc thực hiện các UTTP do Tòa án Việt Nam yêu cầu phía nước ngoài ngoài tống đạt giấy tờ và lấy lời khai đương sự đang ở nước ngoài, công dân nước ngoài là đương sự trong các vụ kiện dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình đang được các Tòa án trong nước thụ lý giải quyết còn chậm. Nhiều trường hợp phía nước ngoài không trả lời hoặc thời gian thực hiện khá dài, ảnh hưởng đến thủ tục tố tụng trong nước. Đài Loan vẫn là nước thực hiện hồ sơ UTTP có kết quả cao nhất, các trường hợp không thực hiện được, phía Đài Loan luôn trao đổi cụ thể qua hộp thư điện tử (email) để xử lý kịp thời. Số liệu dưới đây là những nước mà Việt Nam có nhiều yêu cầu ủy thác gửi nước ngoài và có kết quả. Số liệu kết quả UTTP năm 2016 của một số nước cụ thể như sau[7]:
- Về nội dung yêu cầu (tính tổng số UTTP theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài), cụ thể như sau: Dân sự (36,1%), hôn nhân, gia đình (57,8%), kinh doanh, thương mại (3,74%), thi hành án (2,05%) và các vấn đề khác (0,24%).
- Về số lượng hồ sơ và kết quả thực hiện, lãnh thổ Đài Loan (329/491); Cộng hòa Pháp (3/56); Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (7/20); Cộng hòa Séc (5/11); Liên bang Nga (1/5).
3. Kết luận
Trong bối cảnh Việt Nam từng bước phát triển mạnh mẽ về hội nhập quốc tế và khu vực, việc tiếp tục nâng cao nhận thức và vai trò trong công tác TTTP là hết sức cần thiết. Để thực hiện nhiệm vụ đó, các bên ký kết nói chung và Việt Nam nói riêng cần:
- Thực thi nghiêm túc, có hiệu quả các hiệp định TTTP trong lĩnh vực dân sự, đặc biệt là hoạt động về tống đạt giấy tờ; chủ động nghiên cứu gia nhập các điều ước quốc tế đa phương về TTTP, tạo cơ sở pháp lý quốc tế cho yêu cầu giải quyết các vụ việc trong nước.
- Tăng cường trao đổi với các cơ quan có thẩm quyền nước ngoài về những vướng mắc, bất cập trong việc thực hiện các UTTP với Việt Nam để có hướng xử lý thích hợp.
- Tăng cường hoạt động kiểm tra, đôn đốc tình hình thực hiện UTTP ở cả trong nước và ngoài nước.
- Tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật TTTP trong đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật để nâng cao nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác này trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đáp ứng yêu cầu phát triển và bảo vệ đất nước trong tình hình mới.
- Tăng cường nghiên cứu, đề xuất đàm phán, ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế về TTTP, trọng tâm là với các nước đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, các nước có quan hệ truyền thống, các nước láng giềng, các nước có đông người Việt Nam sinh sống, các nước có quan hệ hợp tác kinh tế - đầu tư phát triển với nước ta; sửa đổi các hiệp định TTTP mà Việt Nam đã ký trước những năm 2000 cho phù hợp với pháp luật và tình hình hợp tác hiện nay; tăng cường thực thi các điều ước quốc tế về TTTP đã có hiệu lực.
Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp
[1]. Xem: http://vbpl.vn/Pages/danh-sach-dieu-uoc.aspx?.
[2]. Hiệp định Tương trợ tư pháp và pháp lý ký kết giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các nước - Lời giới thiệu, tr. 11.
[3]. Hiệp định Tương trợ tư pháp và pháp lý ký kết giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các nước, tr. 13 - 15.
[4]. Hiệp định Tương trợ tư pháp và pháp lý ký kết giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các nước - Vai trò của hiệp định tương trợ tư pháp
[5]. Báo cáo số 14/BC-BTP ngày 20/01/2015 của Chính phủ về kết quả tổng kết 06 năm thi hành Luật Tương trợ tư pháp.
[6]. Báo cáo số 429/BC-CP ngày 17/10/2016 của Chính phủ về công tác tương trợ tư pháp.
[7]. Báo cáo số 429/BC-CP ngày 17/10/2016 của Chính phủ về công tác tương trợ tư pháp.