Thứ ba 10/06/2025 12:21
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Vai trò giữ ổn định chính sách tiền tệ và hệ thống ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Bài viết nghiên cứu về vai trò giữ ổn định chính sách tiền tệ và hệ thống ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế, từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về ngân hàng và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng.


1. Vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế

Không chỉ ở Việt Nam, mà ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, Ngân hàng Nhà nước luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định, phát triển của hệ thống tiền tệ và ngân hàng. Mặt khác, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã làm cho hầu hết các nước trên thế giới đều có nền kinh tế mở..., ngày càng gắn kết chặt chẽ các quốc gia với nhau[1]. Do đó, hiện nay, mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa kinh tế Việt Nam và kinh tế thế giới ngày càng tăng[2]. Việt Nam đã và đang là thành viên của nhiều tổ chức và diễn đàn kinh tế lớn trên thế giới như ASEAN, APEC, ASEM, WTO[3]... và mới là thành viên của CPTPP và EVFTA, nên mức độ tác động, ảnh hưởng của kinh tế thế giới đối với kinh tế Việt Nam ngày càng mạnh mẽ hơn trước. Chính vì vậy, trong những năm qua, Ngân hàng Nhà nước đã phải liên tục có những điều chỉnh quan trọng để vận hành hệ thống tiền tệ và hệ thống ngân hàng của Việt Nam tránh được những khó khăn, thách thức và áp lực từ xu thế hội nhập quốc tế.

Ngân hàng Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc giữ ổn định hệ thống tiền tệ và hệ thống ngân hàng, thể hiện ở các mặt như sau:

Thứ nhất, là cơ quan chịu trách nhiệm duy trì sự ổn định hệ thống tiền tệ của Việt Nam

Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng[4], Ngân hàng Nhà nước là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Điều hành chính sách tiền tệ luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc ổn định kinh tế vĩ mô và liên quan trực tiếp đến quá trình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Việc vận hành chính sách tiền tệ cần phải linh hoạt, nhạy bén và phù hợp với các điều kiện, hoàn cảnh của nền kinh tế. Trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, khó khăn chung của kinh tế thế giới tác động và ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế của Việt Nam, dẫn đến tỷ lệ lạm phát luôn có xu hướng gia tăng nhanh chóng, vì vậy, hệ thống tiền tệ của Việt Nam luôn phải đối mặt với nhiều nguy cơ, rủi ro và thách thức. Điều này, đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước phải nhạy bén, linh hoạt và liên tục kịp thời điều chỉnh chính sách tiền tệ phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Sự ổn định của hệ thống tiền tệ và tăng trưởng ấn tượng của nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua đã cho thấy vai trò rất quan trọng của Ngân hàng Nhà nước trong việc giữ ổn định chính sách tiền tệ quốc gia.

Thứ hai, là chỗ dựa tin cậy của hệ thống ngân hàng thương mại

Để một nền kinh tế thị trường phát triển bền vững thì hệ thống ngân hàng luôn phải bảo đảm hoạt động an toàn, lành mạnh, kỷ cương pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng được duy trì[5]. Hệ thống ngân hàng thương mại những năm qua luôn nhận được sự quan tâm, hỗ trợ rất lớn từ phía Nhà nước và hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng thương mại luôn được bổ sung, hoàn thiện để phù hợp với tình hình thực tiễn, thúc đẩy các ngân hàng thương mại ngày càng phát triển. Hệ thống ngân hàng thương mại đã có những bước phát triển theo hướng kinh doanh đa năng, nâng cao tiềm lực, khả năng cạnh tranh, tồn tại trong điều kiện kinh tế thị trường và những thách thức của việc hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần đáng kể trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước[6]. Tuy nhiên, từ thực tiễn hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại hiện nay cho thấy, vẫn đang tồn tại khá nhiều hạn chế, yếu kém. Lý do là trước đây, chúng ta chưa đánh giá chính xác về điều kiện, khả năng của các ngân hàng thương mại, đã từng có thời kỳ, Ngân hàng Nhà nước tỏ ra khá dễ dàng khi cấp phép hoạt động cho nhiều ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng. Khi hội nhập kinh tế quốc tế và trước sức ép cạnh tranh ngày càng khốc liệt, các ngân hàng thương mại yếu kém luôn đứng trước khả năng phá sản và hậu quả của nó còn làm ảnh hưởng lớn đến sự an toàn, ổn định của cả hệ thống ngân hàng ở Việt Nam. Bên cạnh đó, sự quản lý nhà nước đối với hệ thống ngân hàng thương mại cũng còn khá lỏng lẻo nên đã và đang dẫn tới tình trạng sở hữu chéo giữa các ngân hàng. Vì vậy, trong thời điểm một số ngân hàng thương mại đứng trước bờ vực của sự sụp đổ, để bảo đảm an toàn cho cả hệ thống ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước đã phải xuất hiện với vai trò là nơi cho vay cuối cùng, sử dụng các công cụ như tái cấp vốn, chính sách chiết khấu hay dựa vào quyền hạn đặc biệt của mình để thu xếp cho các ngân hàng thương mại đang hoạt động tốt có thể tiếp nhận sáp nhập các ngân hàng thương mại không còn khả năng trụ vững. Có thể nói, trong giai đoạn hội nhập quốc tế, hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam vẫn cần sự trợ giúp, hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước để có thể cạnh tranh, tồn tại và phát triển. Trước sức ép cạnh tranh khốc liệt của hội nhập kinh tế quốc tế, có thể dự báo khá nhiều ngân hàng thương mại yếu kém tại Việt Nam sẽ rất khó tồn tại lâu dài. Vì thế, vấn đề xử lý các ngân hàng thương mại yếu kém theo hướng cho phép phá sản hay tiếp tục hỗ trợ để duy trì sự tồn tại của chúng cũng đang là bài toán gây rất nhiều khó khăn, phức tạp đối với Ngân hàng Nhà nước.

Thứ ba, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân trước khó khăn về kinh tế và tích cực hỗ trợ hoạt động xuất nhập khẩu

Khác với các ngân hàng thương mại tư nhân thường chỉ hướng đến mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, Ngân hàng Nhà nước còn giữ vai trò bảo đảm sự phát triển kinh tế cho người dân và hỗ trợ các doanh nghiệp khi gặp khó khăn. Mục tiêu hoạt động vì lợi ích quốc gia của Ngân hàng Nhà nước là tiêu chí để phân biệt hoạt động của nó với hoạt động ngân hàng của các định chế tài chính - tín dụng khác trong nền kinh tế[7]. Điều này được minh chứng khi Ngân hàng Nhà nước liên tục có những chính sách hỗ trợ cho vay ưu đãi đối với những cá nhân, hộ gia đình gặp khó khăn về kinh tế để tiếp tục có vốn phát triển sản xuất và nâng cao, cải thiện đời sống. Còn đối với các doanh nghiệp khi gặp khó khăn do các yếu tố khách quan như thiên tai, dịch bệnh hoặc trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế, Ngân hàng Nhà nước đã có rất nhiều chính sách ưu đãi như cho vay với lãi suất thấp, cơ cấu lại khoản vay hay miễn, giảm lãi vay… để nhằm giúp các doanh nghiệp có thể vượt qua khó khăn. Nhờ đó, doanh nghiệp có thể yên tâm hoạt động, tập trung phát triển sản xuất, kinh doanh.

Riêng đối với lĩnh vực xuất nhập khẩu, đây luôn được xác định là một trong các lĩnh vực kinh tế đặc biệt quan trọng của Việt Nam. Trong nhiều năm qua, Ngân hàng Nhà nước luôn có những chính sách ưu đãi thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực này. Vì vậy, những thành tựu to lớn trong lĩnh vực xuất nhập khẩu của Việt Nam những năm vừa qua luôn có vai trò và đóng góp rất lớn của Ngân hàng Nhà nước.

Thứ tư, tạo niềm tin và bảo đảm cho các nhà đầu tư nước ngoài đến hợp tác, kinh doanh lâu dài tại Việt Nam

Lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng là một trong những lĩnh vực có độ nhạy cảm cao nhất, chịu nhiều tác động trực tiếp, gián tiếp từ những khó khăn nội tại của nền kinh tế cũng như những tác động bên ngoài[8]. Vì thế, thực tiễn kinh tế thế giới ngày nay đã chỉ ra rằng, sự ổn định và phát triển của hệ thống ngân hàng, tổ chức tín dụng là một trong những điều kiện cơ bản của sự phát triển[9]. Vì vậy, một quốc gia muốn thu hút, mời gọi các nhà đầu tư nước ngoài đến hợp tác, sản xuất, kinh doanh, thì bản thân quốc gia đó phải có một hệ thống tài chính, tiền tệ, ngân hàng vững chắc và thuận tiện cho các nhà đầu tư. Cho nên, khả năng ảnh hưởng và hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Nhà nước luôn là một trong các yếu tố rất quan trọng để thu hút, mời gọi các nhà đầu tư từ nước ngoài đến hợp tác, sản xuất, kinh doanh.

Từ thực tiễn kinh doanh cho thấy, trong những năm qua, khá nhiều nhà đầu tư lớn trên thế giới đã đến sản xuất, kinh doanh với quy mô rất lớn tại Việt Nam (Samsung, Intel, Honda, Toyota, Microsoft…). Để có được điều này, Ngân hàng Nhà nước đã phải xây dựng một hệ thống ngân hàng phát triển rộng rãi ở khắp mọi nơi và đồng thời, vẫn không ngừng phát triển, mở rộng các hình thức và phương tiện thanh toán theo hướng ngày càng tiên tiến, hiện đại và phù hợp với quy chuẩn quốc tế. Mặt khác, Ngân hàng Nhà nước luôn can thiệp kịp thời vào hệ thống tiền tệ để duy trì và bảo đảm sự ổn định, an toàn. Sự hoạt động hiệu quả của Ngân hàng Nhà nước chính là cơ sở quan trọng để thu hút, mời gọi các nhà đầu tư từ khắp nơi tin tưởng và yên tâm hợp tác, sản xuất, kinh doanh lâu dài tại Việt Nam.

2. Một số kiến nghị

Vấn đề xử lý các ngân hàng thương mại yếu kém đang là vấn đề rất khó khăn, phức tạp của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, trong đó, việc cho phép ngân hàng thương mại yếu kém được phép phá sản hay không phá sản, đều gây những tác động và ảnh hưởng rất lớn đến hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Tuy nhiên, nên mạnh dạn cho phép các ngân hàng thương mại yếu kém phá sản, có như vậy, mới có thể cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, bảo đảm sự ổn định và hiệu quả bền vững lâu dài. Do đó, cần xem xét một số vấn đề sau đây:

Một là, với quy định hiện hành, các ngân hàng thương mại được tổ chức theo hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn[10], nên theo Luật Phá sản[11], các loại hình công ty này đều có thể tiến hành thủ tục phá sản. Mặt khác, tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại còn tuân thủ quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020, nên chúng cũng có thể bị giải thể khi không đáp ứng một số điều kiện pháp lý[12]. Vì vậy, cho phép các ngân hàng thua lỗ được phá sản[13] là tiền đề rất quan trọng để có thể tiến tới việc tổ chức phá sản một số ngân hàng thương mại đang hoạt động yếu kém. Điểm tắc nghẽn, cản trở rất lớn của việc cho phép phá sản ngân hàng tại Việt Nam là do chưa có tiền lệ, nên Ngân hàng Nhà nước lo ngại có thể dẫn đến việc người dân mất niềm tin vào hệ thống ngân hàng và từ đó, dẫn đến các cuộc hoảng loạn về tài chính nếu người dân đồng loạt đến các ngân hàng khác để rút tiền ồ ạt. Song từ thực tiễn tình trạng nợ xấu, thua lỗ của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam trong thời gian qua cho thấy, việc chưa có ngân hàng nào ở Việt Nam bị phá sản không phải xuất phát từ chỗ ngân hàng ở Việt Nam hoạt động quá hiệu quả mà là tư duy của chúng ta khác với tư duy ở một số quốc gia khác[14]. Suy cho cùng, đó chính là tâm lý sợ cho phép phá sản ngân hàng tại Việt Nam. Điểm hạn chế, bất lợi của việc không cho phép ngân hàng thương mại phá sản lại dẫn đến tình trạng trông chờ, ỷ lại, dựa dẫm vào Ngân hàng Nhà nước của các ngân hàng thưng mại. Việc cố gắng duy trì sự tồn tại bấp bênh của các ngân hàng thương mại yếu kém không phải là giải pháp hợp lý, an toàn và lâu dài. Tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại yếu kém chấm dứt hoạt động, sẽ nhanh chóng làm trong sạch phần còn lại của hệ thống tài chính, ngân hàng[15]. Các ngân hàng thương mại nên tự chịu trách nhiệm về những thất bại của họ trong kinh doanh, chấp nhận sự phá sản nếu hoạt động không hiệu quả. Việc cho phá sản ngân hàng có tính tích cực là các ngân hàng thương mại sẽ cẩn trọng hơn trong hoạt động của mình[16]. Như vậy, có thể khẳng định, phá sản ngân hàng thương mại là cần thiết và là quy luật tất yếu của kinh tế thị trường, góp phần làm cho hệ thống ngân hàng của Việt Nam ngày càng tự lực, chuyên nghiệp, hiện đại, ổn định, bền vững hơn. Chúng ta cần nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm khi tổ chức phá sản ngân hàng của các quốc gia như Hoa Kỳ hay Trung Quốc[17]. Trước đó, Ngân hàng Nhà nước có thể tìm các biện pháp tài chính phù hợp để hỗ trợ ngân hàng thương mại mất khả năng thanh khoản. Chỉ đến khi các biện pháp không có tác dụng, thì mới cho phép ngân hàng thương mại phá sản. Đồng thời, để tránh những cú sốc về tâm lý cho người gửi tiền khi ngân hàng thương mại đột nhiên phá sản, Ngân hàng Nhà nước cần đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật về ngân hàng, trong đó, cần nhấn mạnh đến các quyền lợi của người gửi tiền sẽ được hưởng khi ngân hàng thương mại bị phá sản. Mặt khác, cần nghiên cứu và xây dựng riêng một đạo luật như “Luật Phá sản các tổ chức tín dụng”. Bởi lẽ, ngân hàng mặc dù hoạt động dưới hình thức pháp lý là các công ty thương mại, thế nhưng, do đặc thù của chúng luôn tác động và ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định của cả hệ thống tiền tệ và quyền lợi của người gửi tiền, do đó, cần có quy chế pháp lý riêng để điều chỉnh hoạt động của ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khi chúng phá sản. Hơn nữa, việc ban hành “Luật Phá sản các tổ chức tín dụng” còn có ý nghĩa rất quan trọng khi cho thấy không có ngoại lệ đối với bất kỳ loại hình chủ thể kinh doanh nào tại Việt Nam, cho dù đó là những định chế tài chính lớn như ngân hàng. Điều đó, không những góp phần nâng cao ý thức, tinh thần trách nhiệm đối với các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng đang hoạt động, mà còn giúp cho những người gửi tiền dần quen với việc ngân hàng thương mại hoàn toàn có thể bị phá sản.

Hai là, để bảo đảm quyền lợi cho người gửi tiền và an toàn cho cả hệ thống ngân hàng thì trước khi cho phép phá sản ngân hàng, Việt Nam cần phải xây dựng hệ thống bảo hiểm tiền gửi đủ khả năng để có thể bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người gửi tiền. Trong đó, cần xem xét và tăng mức bồi thường tiền gửi hiện nay lên cao hơn. Sở dĩ như vậy là vì mức tiền bồi thường tối đa 75 triệu đồng/một vụ/một khách hàng là khá thấp so với mức thu nhập thực tế và số lượng tiền gửi của khách hàng tại các ngân hàng thương mại hiện nay[18]. Trên thực tế, đã không ít ý kiến nhận xét về mức tiền được bảo hiểm này và đều cho rằng, cần phải nâng cao hơn để phù hợp với thực tế gửi tiền[19]. Thậm chí, có quan điểm cho rằng, cần nâng mức bảo hiểm tiền gửi lên từ 200 đến 250 triệu đồng[20]. Điều này là phù hợp với thực tiễn và điều kiện kinh tế của phần lớn người gửi tiền tại Việt Nam hiện nay. Nếu mức bảo hiểm tiền gửi tương xứng với số tiền gửi thì khi cho phép ngân hàng thương mại phá sản, người gửi tiền mới bớt hoảng loạn và vẫn có thể bảo đảm an toàn cho cả hệ thống ngân hàng.

TS. Nguyễn Vinh Hưng
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội



[1]. Phạm Quang Vinh (2011), Giáo trình Kinh tế học Vĩ mô, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 135.

[2]. Lê Danh Vĩnh (2009), Hoàn thiện thể chế về môi trường kinh doanh của Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 186.

[3]. Nguyễn Vinh Hưng (2017), Economic management function of the state of Vietnam in phase of international integration, Journal of science - Hanoi open university, No. 32, 6/2017, p. 43.

[4]. Khoản 3 Điều 2 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010.

[5]. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2020), Vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng, ngày truy cập: 15/4/2021
[6]. Lê Thị Thu Thủy (chủ biên 2005), Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 37.

[7]. Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, tr. 36.

[8]. Tạp chí Tài chính (2014), Vai trò của Ngân hàng Nhà nước đối với sự ổn định của hệ thống tài chính
[9]. Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, tr. 5.

[10]. Điều 6 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (đựơc sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[11]. Điều 2 Luật Phá sản năm 2014.

[12]. Điều 207 Luật Doanh nghiệp năm 2020.

[13]. Báo Giao thông (2017), Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm phá sản ngân hàng Mỹ

[14]. Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online (2015), Vì sao Việt Nam chưa có ngân hàng bị phá sản

[15]. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2019), Phá sản ngân hàng: Cẩn trọng và trách nhiệm
[16]. Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online (2015), tlđd.

[17]. Báo Tuổi trẻ (2019), Chính phủ Trung Quốc thâu tóm một ngân hàng tư nhân

[18]. Luật Bảo hiểm tiền gửi năm 2012 và Quyết định số 21/2017/QĐ-TTg ngày 15/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về hạn mức trả tiền bảo hiểm.

[19]. Báo Tuổi trẻ Online (2017), Gửi tiền tỉ, ngân hàng phá sản bồi thường 75 triệu có ý nghĩa gì!
[20]. Báo Giao thông (2017), tlđd.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm