Thừa ủy quyền của Chủ tịch nước, ông Phạm Thanh Hà, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước chủ trì buổi họp báo, công bố toàn văn Lệnh của Chủ tịch nước về việc công bố luật vừa được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 6, bao gồm 07 luật, đó là: Luật Căn cước năm 2023; Luật Tài nguyên nước năm 2023; Luật Nhà ở (sửa đổi) năm 2023; Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở năm 2023; Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) năm 2023; Luật Quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự năm 2023 và Luật Viễn thông năm 2023.
Dưới đây là nội dung cơ bản của các đạo luật được công bố:
1. Luật Căn cước năm 2023
Luật Căn cước năm 2023 gồm 07 chương, 46 điều, được xây dựng nhằm mục đích phục vụ giải quyết thủ tục hành chính và cung cấp dịch vụ công trực tuyến; phát triển kinh tế, xã hội; xây dựng công dân số; hoàn thiện hệ sinh thái phục vụ kết nổi, khai thác, bổ sung làm giàu dữ liệu dân cư và phục vụ chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo các cấp.
Luật có đối tượng áp dụng được mở rộng hơn so với Luật Căn cước công dân năm 2014, ngoài áp dụng đối với công dân Việt Nam, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, Luật này còn áp dụng đối với người gốc Việt Nam chưa xác định được quốc tịch đang sinh sống tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, Luật cũng bổ sung quy định về giải thích từ ngữ để làm rõ một số thuật ngữ liên quan đến công tác quản lý nhà nước về căn cước; quy định mở rộng, tích hợp nhiều thông tin khác của công dân và người gốc Việt Nam trong các cơ sở dữ liệu khác vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn cước so với Luật Căn cước công dân năm 2014 để trực tiếp phục vụ cho việc ứng dụng tiện ích của thẻ căn cước, căn cước điện tử, kết nối, chia sẻ thông tin người dân; sửa đổi, bổ sung theo hướng lược bỏ vân tay và sửa đổi quy định về thông tin số thẻ căn cước, dòng chữ “căn cước công dân, quê quán, nơi thường trú, chữ ký của người cấp thẻ” thành “số định danh cá nhân, căn cước, nơi đăng ký khai sinh, nơi cư trú trên thẻ căn cước...”; bổ sung quy định về quản lý, cấp thẻ căn cước cho người dưới 14 tuổi để bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của họ; phát huy giá trị, tiện ích của thẻ căn cước trong hoạt động của Chính phủ số, xã hội số. Việc cấp thẻ căn cước cho người dưới 14 tuổi sẽ thực hiện theo nhu cầu, còn đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên là bắt buộc…
Ngoài ra, cấp, quản lý căn cước điện tử là nội dung mới của Luật, theo đó, mỗi công dân Việt Nam được cấp căn cước điện tử, căn cước điện tử có giá trị tương đương như thẻ căn cước sử dụng để thực hiện thủ tục hành chính, dịch vụ công và thực hiện các giao dịch, hoạt động khác theo nhu cầu của công dân.
Luật Căn cước năm 2023 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2024, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 45 của Luật.
2. Luật Tài nguyên nước năm 2023
Luật Tài nguyên nước năm 2023 gồm 10 chương và 86 Điều, được xây dựng nhằm góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, bảo đảm minh bạch để có khả năng khai thác tối đa nguồn tài nguyên; phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước ở cả trung ương và địa phương để khắc phục các chồng chéo, xung đột pháp luật; hướng tới quản lý tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số, thống nhất về cơ sở dữ liệu, xây dựng bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định theo thời gian thực, giảm thiểu nhân lực quản lý, vận hành, chi phí đầu tư của nhà nước, đồng thời giúp quản lý, khai thác hiệu quả tài nguyên nước; giảm điều kiện kinh doanh cho tổ chức, cá nhân; chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế thông qua các chính sách về giá nước, thuế, phí, lệ phí, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước; đẩy mạnh xã hội hóa.
Luật đã cụ thể hóa 04 nhóm chính sách đã được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 50/2022/QH15 ngày 13/6/2022, gồm: Bảo đảm an ninh nguồn nước; xã hội hóa ngành nước; kinh tế tài nguyên nước; bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống tác hại do nước gây ra và sửa đổi, bổ sung một số chính sách khác. Cụ thể: Luật đã bổ sung các quy định nhằm bảo đảm an ninh nguồn nước với các chính sách liên quan đến an ninh nguồn nước được thể hiện xuyên suốt trong các chương, điều của Luật. Mục tiêu đến năm 2030, hướng tới nâng cao mức đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia lên nhóm các quốc gia đảm bảo an ninh tài nguyên nước hiệu quả trong khu vực Đông Nam Á và tiệm cận với các nước tiên tiến trên thế giới; sửa đổi, bổ sung các quy định về bảo vệ tài nguyên nước như quy định về phân vùng chức năng nguồn nước, bảo vệ chất lượng nguồn nước sinh hoạt, phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm, việc lập, công bố danh mục hồ, ao, đầm phá không được san lấp để giảm thiểu tình trạng ngập úng đô thị, tăng khả năng tích trữ nước.
Bên cạnh đó, Luật còn sửa đổi, bổ sung các quy định về khai thác, sử dụng nước; bổ sung các quy định nhằm đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực tài nguyên nước; bổ sung các quy định nhằm chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế; bổ sung các quy định để tách bạch quản lý tổng hợp thống nhất về tài nguyên nước với quản lý, vận hành công trình khai thác, sử dụng nước và giải quyết những chồng chéo, đan xen, xung đột, có “lỗ hổng” trong các luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước.
Luật Tài nguyên nước năm 2023 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2024.
3. Luật Nhà ở (sửa đổi) năm 2023
Luật Nhà ở (sửa đổi) năm 2023 gồm 13 chương với 198 điều, giảm 04 chương và tăng 15 điều so với Luật Nhà ở năm 2014, được xây dựng nhằm kịp thời thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước trong việc phát triển nhà ở cho nhân dân, đặc biệt là người có thu nhập thấp và người nghèo, không có khả năng tạo lập nhà ở theo cơ chế thị trường; sửa đổi, hoàn thiện các quy định của Luật Nhà ở năm 2014 cho phù hợp với tình hình thực tế, tháo gỡ các tồn tại, hạn chế, bảo đảm tính hợp hiến, sự thống nhất, đồng bộ giữa quy định của Luật Nhà ở (sửa đổi) năm 2023với các luật khác có liên quan.
Để tạo cơ sở pháp lý cho địa phương thực hiện quản lý nhà nước về nhà ở, Luật Nhà ở (sửa đổi) năm 2023 đã quy định về kỳ chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở cấp tỉnh, trong đó bỏ quy định về kế hoạch phát triển nhà ở hàng năm; quy định chặt chẽ hơn về việc điều chỉnh chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở; bỏ quy định lấy ý kiến Bộ Xây dựng khi thực hiện thủ tục xây dựng, phê duyệt chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở.
Luật sửa đổi, bổ sung một số quy định về phát triển nhà ở thương mại, nhà ở công vụ, nhà ở tái định cư, nhà ở riêng lẻ; luật hóa một số quy định của Nghị định hiện hành về cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư để nâng cao hiệu lực pháp lý và bổ sung một số quy định đặc thù; xác định rõ trách nhiệm dành quỹ đất để phát triển nhà ở xã hội là trách nhiệm của chính quyền địa phương; bổ sung 02 hình thức mới là phát triển nhà lưu trú công nhân và phát triển nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân; bãi bỏ quy định về điều kiện cư trú khi mua, thuê mua nhà ở xã hội chỉ còn điều kiện về nhà ở và thu nhập, đối với trường hợp thuê nhà ở xã hội thì không yêu cầu bắt buộc phải đáp ứng các điều kiện về nhà ở, thu nhập, chỉ cần đúng đối tượng; sửa đổi, bổ sung nhiều ưu đãi chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội, khuyến khích doanh nghiệp tham gia đầu tư, góp phần tăng nguồn cung nhà ở xã hội.
Bên cạnh đó, Luật còn bổ sung quy định các hình thức huy động vốn cho phát triển nhà ở; quy định về vốn nhà nước để phát triển nhà ở; đưa một số quy định về nguyên tắc huy động, sử dụng nguồn vốn từ nghị định lên Luật để nâng cao hiệu lực của quy định; bổ sung mới một số quy định cụ thể về chuyển đổi công năng nhà ở, lựa chọn đơn vị quản lý vận hành nhà ở thuộc sở hữu nhà nước; bổ sung, sửa đổi một số quy định về sở hữu chung, sở hữu riêng, khai thác nguồn thu từ phần sử dụng chung của nhà chung cư nhằm khắc phục các tranh chấp khiếu kiện trong quản lý sử dụng nhà chung cư.
Luật Nhà ở (sửa đổi) năm 2023 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2025.
4. Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở năm 2023
Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở năm 2023 có 05 chương và 33 điều, được xây dựng nhằm thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về kiện toàn, sắp xếp, tinh gọn đầu mối bên trong gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của từng tổ chức cơ sở; giảm chi ngân sách nhà nước; cụ thể hóa và tạo cơ sở pháp lý để bảo đảm thi hành quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân, đáp ứng yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới.
Luật quy định cụ thể về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức, hoạt động, quan hệ công tác, xây dựng lực lượng, bảo đảm điều kiện hoạt động và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức đối với lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở; tiêu chuẩn về lý lịch, trình độ văn hóa, sức khỏe của người được tuyển chọn tham gia lực lượng bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tiễn, yêu cầu bảo đảm an ninh, trật tự của từng vùng miền; quan hệ công tác, phối hợp của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở; nhiệm vụ của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở; sắp xếp, kiện toàn, bố trí lực lượng và bảo đảm điều kiện hoạt động của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở…
Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở năm 2023 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2024.
5. Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) năm 2023
Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) năm 2023 gồm 10 Chương với 83 điều, tăng 04 chương và tăng 01 điều so với Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014, được xây dựng nhằm kịp thời thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước trong việc phát triển và quản lý chặt chẽ thị trường bất động sản, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển lành mạnh, bền vững và vận hành thông suốt thị trường bất động sản; vận hành đồng bộ thị trường quyền sử dụng đất, thị trường lao động, thị trường bất động sản; đảm bảo thị trường bất động sản phát triển ổn định, lành mạnh, công khai, minh bạch; sửa đổi, hoàn thiện các quy định của Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 cho phù hợp với tình hình thực tế, tháo gỡ các tồn tại, hạn chế, bảo đảm tính hợp hiến, sự thống nhất, đồng bộ giữa quy định của Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) năm 2023 với các luật khác có liên quan.
Để phân định rõ phạm vi điều chỉnh của Luật Kinh doanh bất động sản với các luật khác có liên quan, Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) năm 2023 đã quy định các trường hợp Luật không điều chỉnh, như việc bán nhà, công trình xây dựng, chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các tổ chức do giải thể, phá sản, chia tách…
Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) năm 2023 đã quy định cụ thể hơn về các loại bất động sản, dự án bất động sản đưa vào kinh doanh; sửa đổi, bổ sung quy định về công khai thông tin về bất động sản đưa vào kinh doanh; trách nhiệm của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản trong việc phải công khai thông tin bất động sản, dự án bất động sản trước khi đưa bất động sản, dự án bất động sản vào kinh doanh; luật hóa một số quy định của nghị định hiện hành về điều kiện đối với tổ chức, cá nhân khi kinh doanh bất động sản.
Bên cạnh đó, Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) năm 2023 có một số điểm mới về chính sách kinh doanh nhà ở, công trình xây dựng có sẵn và hình thành trong tương lai; bổ sung quy định chi tiết hơn về các loại hợp đồng kinh doanh bất động sản; bổ sung quy định sử dụng hợp đồng trong kinh doanh bất động sản; luật hóa một số quy định của nghị định hiện hành, nhằm bảo đảm tính pháp lý rõ ràng, chặt chẽ, khả thi đối với việc xây dựng và quản lý hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về nhà ở và thị trường bất động sản; bảo đảm kết nối, chia sẻ dữ liệu với cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai, cơ sở dữ liệu của các Bộ, ngành, địa phương, cơ quan có liên quan…
Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) năm 2023 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2025.
6. Luật Quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự năm 2023
Luật Quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự gồm 06 chương, 34 điều, được xây dựng nhằm thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật có liên quan, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong tổ chức thực hiện xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong tình hình mới; tăng cường các biện pháp quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự; xây dựng chính sách hỗ trợ, ưu tiên các chương trình đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội đối với địa phương, cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tại địa bàn bị ảnh hưởng lớn về phát triển kinh tế - xã hội, hạn chế đầu tư nước ngoài; chính sách đối với các khu vực bị hạn chế về quyền sử dụng đất và các quyền, lợi ích hợp pháp khác do yêu cầu quản lý, bảo vệ, bảo đảm an toàn cho công trình quốc phòng và khu quân sự.
Ngoài các quy định chung về phạm vi điều chỉnh, các nguyên tắc quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự, chính sách của Nhà nước trong quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự; phân loại và phân nhóm công trình quốc phòng và khu quân sự, Luật còn có các chế định liên quan đến quản lý công trình quốc phòng và khu quân sự, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự; quyền, nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự.
Luật Quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự năm 2023 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2025.
7. Luật Viễn thông năm 2023
Luật Viễn thông năm 2023 được xây dựng nhằm thể chế hóa đầy đủ, đúng chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước trong hoạt động viễn thông, phát triển hạ tầng viễn thông tạo nền tảng cho phát triển kinh tế số, xã hội số, Chính phủ số; khắc phục những vướng mắc, bất cập trong Luật Viễn thông năm 2009, bổ sung quy định đối với các nội dung mới, phù hợp với xu thế phát triển và bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, khả thi của Luật này với hệ thống pháp luật, phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đơn giản hóa thủ tục hành chính.
So với Luật Viễn thông năm 2009, Luật Viễn thông năm 2023 mở rộng phạm vi điều chỉnh một số dịch vụ mới như dịch vụ trung tâm dữ liệu, dịch vụ điện toán đám mây, dịch vụ viễn thông cơ bản trên internet. Việc quản lý 03 dịch vụ mới được thực hiện theo cách tiếp cận “quản lý nhẹ” ở mức độ phù hợp, có độ mở, hướng đến bảo vệ quyền lợi người sử dụng, bảo đảm an toàn, an ninh và tạo thuận lợi cho các dịch vụ phát triển.
Bên cạnh đó, Luật Viễn thông năm 2023 còn bổ sung một số quy định về cho phép công trình viễn thông được xây dựng, lắp đặt trên tài sản công; trách nhiệm của chủ đầu tư xây dựng nhà chung cư, công trình công cộng, khu chức năng... trong việc thiết kế, xây dựng, bố trí mặt bằng để xây dựng, lắp đặt hạ tầng viễn thông; trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp, bộ, ngành liên quan trong việc xử lý các hành vi cản trở việc xây dựng hợp pháp cơ sở hạ tầng viễn thông; các quy định về hoạt động viễn thông công ích, quy định đấu giá quyền sử dụng kho số viễn thông, tài nguyên internet nhưng chưa thực hiện được; nghĩa vụ của doanh nghiệp viễn thông phải xác thực, lưu trữ, quản lý thông tin thuê bao, xử lý các SIM có thông tin không đầy đủ, không chính xác (SIM rác), ngăn chặn tin nhắn rác, cuộc gọi vi phạm pháp luật; hoàn thiện quy định sử dụng chung hạ tầng liên ngành giữa viễn thông với các công trình hạ tầng kỹ thuật giao thông, năng lượng, cấp thoát nước, chiếu sáng công cộng…
Bên cạnh đó, nhằm khuyến khích gia nhập thị trường thuận lợi cũng như thúc đẩy cạnh tranh, Luật Viễn thông năm 2023 bổ sung quy định về các hình thức cấp phép; điều kiện cấp phép viễn thông; các hình thức đăng ký, thông báo để đơn giản hóa thủ tục hành chính; quản lý hoạt động bán buôn trong viễn thông; quản lý hoạt động cung cấp dịch vụ viễn thông của các tổ chức nước ngoài theo hình thức qua biên giới đến người sử dụng dịch vụ trên lãnh thổ Việt Nam; cơ chế thử nghiệm có kiểm soát công nghệ mới, mô hình mới trong hoạt động viễn thông; hoàn thiện quy định sử dụng tài khoản SIM thuê bao di động để thanh toán cho dịch vụ viễn thông và dịch vụ nội dung thông tin trên mạng viễn thông di động.
Luật Viễn thông năm 2023 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2014./.
Minh Minh