Chủ nhật 15/06/2025 21:28
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Xác định dấu hiệu “tương tự gây nhầm lẫn, có khả năng gây nhầm lẫn” nhãn hiệu được bảo hộ theo pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam

Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung phân tích, bình luận quy định của Luật Sở hữu trí tuệ và đề xuất hoàn thiện pháp luật để xác định thế nào là “tương tự gây nhầm lẫn, có khả năng gây nhầm lẫn” về nhãn hiệu được bảo hộ với đối tượng, dấu hiệu bị xem xét, bị cáo buộc là vi phạm.

1. Dẫn đề

Thời gian vừa qua, dư luận trong nước đặc biệt quan tâm đến vụ án xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp do Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đưa ra xét xử sơ thẩm (đã qua 02 lần đưa ra xét xử) đối với pháp nhân là Công ty cổ phần Tập đoàn Bia Sài Gòn Việt Nam và ông Lê Đình Trung[1]. Đây là vụ án đầu tiên bị khởi tố và đưa ra xét xử liên quan đến “Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp” được quy định tại Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và cũng là lần đầu tiên trong lịch sử tố tụng hình sự tại Việt Nam pháp nhân là bị cáo. Nhưng cho đến nay, vụ án vẫn phải dừng lại và đợi hướng dẫn thêm từ cơ quan có thẩm quyền[2].

Xung quanh vụ án này, có nhiều quan điểm và ý kiến đưa ra, trong đó, một trong những vướng mắc được đề cập là thiếu quy định cụ thể để xác định “tương tự gây nhầm lẫn, có khả năng gây nhầm lẫn” giữa nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ với đối tượng, dấu hiệu bị xem xét, bị cáo buộc là vi phạm.

Hiện nay, cơ sở pháp lý chuyên ngành cao nhất về bảo hộ nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp là Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009 và năm 2019 - sau đây gọi tắt là Luật Sở hữu trí tuệ). Đây là một lĩnh vực đặc biệt phức tạp với rất nhiều hành vi vi phạm và khó xử lý triệt để, vì nó liên quan rất lớn đến lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh doanh và pháp luật chưa bao quát hết được các hành vi, dấu hiệu vi phạm đã phát sinh trong đời sống kinh tế - xã hội.

Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung phân tích, bình luận quy định của Luật Sở hữu trí tuệ và đề xuất hoàn thiện pháp luật để xác định thế nào là “tương tự gây nhầm lẫn, có khả năng gây nhầm lẫn” về nhãn hiệu được bảo hộ với đối tượng, dấu hiệu bị xem xét, bị cáo buộc là vi phạm.

2. Nhãn hiệu hàng được bảo hộ và hành vi xâm phạm theo quy định pháp luật

Luật Sở hữu trí tuệ định nghĩa: “Tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào” (khoản 7 Điều 4). Các sản phẩm ở đây có thể là hữu hình hoặc vô hình nhưng đều có những hình thức đặc định, như là nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp của các sản phẩm được sản xuất kinh doanh… cũng được xác định trong Luật này dưới những định nghĩa chung nhất: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau” (khoản 16 Điều 4). Đây là một trong những nội dung khó phân biệt trong thực tế cuộc sống và hoạt động sản xuất, kinh doanh, vì rất nhiều loại sản phẩm, hàng hóa có dấu hiệu “khá giống nhau” nhưng có thể hoặc không được coi là nhầm lẫn, giả dạng nhau.

Để bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu đã được đăng ký bảo hộ, Luật Sở hữu trí tuệ cũng xác định những hành vi xâm phạm đối với quyền sở hữu nhãn hiệu, hàng hóa giả mạo nhãn hiệu đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và bảo hộ như sau:

2.1. Xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu

Theo quy định tại khoản 1 Điều 129 Luật Sở hữu trí tuệ, các hành vi sau đây được thực hiện mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu thì bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu:

“a) Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ trùng với hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó;

b) Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ tương tự hoặc liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ;

c) Sử dụng dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ trùng, tương tự hoặc liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ...”.

Căn cứ vào đặc tính nhãn hiệu của sản phẩm, có thể phân loại các dạng hành vi xâm phạm quyền nhãn hiệu như sau:

(i) Hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu khi sử dụng dấu hiệu, yếu tố “trùng” với nhãn hiệu bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ trùng với hàng hóa, dịch vụ bảo hộ. Hành vi vi phạm dạng này có tính chất và mức độ vi phạm nghiêm trọng hơn, vì vậy, Luật không quy định điều kiện “có khả năng gây nhầm lẫn” hay không về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ đối với dạng hàng vi này.

(ii) Hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu khi sử dụng dấu hiệu, yếu tố “trùng” với nhãn hiệu bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ tương tự hoặc liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó.

(iii) Hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu khi sử dụng dấu hiệu, yếu tố “tương tự” với nhãn hiệu bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ trùng, tương tự hoặc liên quan tới với hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó.

Đối với các dạng hành vi (ii) và hành vi (iii) nêu trên, do có mức độ vi phạm ít nghiêm trọng hơn dạng hành vi (i) nên Luật Sở hữu trí tuệ quy định điều kiện kèm theo là “nếu khi sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ” thì mới cấu thành hành vi xâm phạm nhãn hiệu.

2.2. Giả mạo nhãn hiệu hàng hóa

Khoản 2 Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Hàng hóa giả mạo nhãn hiệu là hàng hóa, bao bì của hàng hóa có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý”.

Khoản 5 Điều 11 Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ[3] (Nghị định số 105/2006/NĐ-CP) đã giải thích: “Trường hợp sản phẩm, dịch vụ mang dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt về tổng thể cấu tạo và cách trình bày so với nhãn hiệu được bảo hộ cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại thuộc phạm vi bảo hộ thì bị coi là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu theo quy định tại Điều 213 của Luật Sở hữu trí tuệ”.

Như vậy, Nghị định số 105/2006/NĐ-CP đã mở rộng phạm vi áp dụng hơn so với Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ ở hai khía cạnh: Một là, hàng hóa giả mạo nhãn hiệu bao gồm cả với lĩnh vực dịch vụ; hai là, sản phẩm/dịch vụ chỉ cần đáp ứng “cùng loại thuộc phạm vi bảo hộ” chứ không chỉ giới hạn là “chính mặt hàng đó”.

Từ các quy định trên, dựa trên tiêu chí về mức độ giống nhau/sự tương đồng giữa nhãn hiệu bảo hộ với dấu hiệu bị nghi ngờ - yếu tố đang xem xét, có thể chia ra thành hai trường hợp bị coi là hàng hóa giả mạo như sau:

(i) Dấu hiệu bị nghi ngờ - yếu tố đang được xem xét trùng hoàn toàn với nhãn hiệu bảo hộ về mặt nội dung, ý nghĩa và hình thức thể hiện (màu sắc, bố cục…);

(ii) Dấu hiệu bị nghi ngờ - yếu tố đang được xem xét khó phân biệt về tổng thể cấu tạo và cách trình bày so với nhãn hiệu được bảo hộ.

Trường hợp (i) tương đối dễ hiểu, dễ đánh giá và áp dụng so với trường hợp (ii), bởi vì, thế nào là “khó phân biệt” về tổng thể cấu tạo và cách trình bày… là các quy định mang tính định tính và tùy thuộc hiểu biết, kiến thức và thông tin có được mà mỗi người có thể có cảm nhận và nhận định khác nhau.

Tuy nhiên, Nghị định này không có sự hướng dẫn đủ chi tiết và rõ ràng hơn rằng thế nào được coi là “khó phân biệt” giữa dấu hiệu, yếu tố bị xem xét và nhãn hiệu được bảo hộ.

3. Nhận định và kiến nghị

Thứ nhất, từ các quy định và phân tích trên đây có thể coi hành vi sản xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo nhãn hiệu là một trường hợp, một dạng của hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, nhưng ở mức độ cao hơn, nghiêm trọng hơn. Theo đó, không phải tất cả các hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu đều có thể bị xử lý bằng biện pháp hình sự, thay vào đó là các biện pháp pháp lý tương ứng như hành chính, dân sự…

Thứ hai, khoản 53 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2017[4] quy định: “Người nào cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam mà đối tượng là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý với quy mô thương mại…”.

Trở lại với vụ án nêu trên, tác giả nhận thấy, với quy định trên, quan điểm và chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước về lĩnh vực sở hữu công nghiệp có thể và nên được hiểu là: Sẽ chỉ xử lý về hình sự đối với dạng hành vi xâm phạm nhãn hiệu ở một mức độ nghiêm trọng nhất định. Tức là, chỉ có đối tượng là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu (hoặc giả mạo chỉ dẫn địa lý) mới có thể bị xử lý bằng biện pháp hình sự[5].

Giả định rằng, tất cả các tiêu chí, yếu tố khác đều được đáp ứng để cấu thành tội phạm theo khoản 1 Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), thì xét về mức độ tương đồng, sự giống nhau (giữa dấu hiệu bị nghi ngờ - yếu tố đang được xem xét để so với nhãn hiệu bảo hộ) trong trường hợp cụ thể nào, ở mức độ như thế nào, đến giới hạn nào có thể bị coi là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc trong trường hợp nào với mức độ giống nhau, tương đồng thế nào thì chỉ bị coi là hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu và bị xử lý hành chính theo quy định?

Thứ ba, trên nguyên tắc áp dụng pháp luật được ghi nhận tại khoản 2 Điều 5 Luật Sở hữu trí tuệ: “Trong trường hợp có sự khác nhau giữa quy định về sở hữu trí tuệ của Luật này với quy định của luật khác thì áp dụng quy định của Luật này”, chúng tôi cho rằng, trong khi đợi văn bản hướng dẫn chính thức của cơ quan có thẩm quyền (Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, các bộ ngành liên quan), thì các quy định tương ứng, liên quan trong các văn bản hướng dẫn chi tiết Luật Sở hữu trí tuệ về thủ tục đăng ký xác lập quyền và trong thủ tục xử phạt hành chính về sở hữu công nghiệp về các thuật ngữ, khái niệm: Xâm phạm nhãn hiệu, hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, có khả năng gây nhầm lẫn, khó phân biệt về tổng thể, nhãn hiệu nổi tiếng… cũng có thể và cần được các cơ quan thực thi quyền sở hữu công nghiệp (bao gồm Tòa án) tham chiếu, tham khảo khi xem xét, giải quyết vụ việc nhằm kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của chủ sở hữu nhãn hiệu.

ThS. Tăng Đức Khương

Công ty cổ phần Sở hữu công nghiệp INVESTIP


[1] Ngày 06/5/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đưa vụ án “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp” ra xét xử lần 2 đối với pháp nhân là Công ty cổ phần Tập đoàn Bia Sài Gòn Việt Nam (Công ty Bia Sài Gòn Việt Nam) và ông Lê Đình Trung, xem: https://lsvn.vn/vu-xam-pham-quyen-so-huu-cong-nghiep-bia-sai-gon-quyen-so-huu-tri-tue-ve-kieu-dang-cong-nghiep-phat-sinh-khi-nao1624523083.html, truy cập ngày 01/9/2021.

[2] Ngày 11/9/2019, Văn phòng Chính phủ có Công văn số 8172/VPCP-V.I, theo đó, Phó thủ tướng Trương Hòa Bình đã có ý kiến chỉ đạo về việc xử lý vướng mắc trong xử lý tội “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp” theo Điều 226 của Bộ luật Hình sự: “Đề nghị Tòa án nhân dân tối cao phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công thương, Bộ Công an trong quá trình xây dựng dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn Điều 225, Điều 226 của Bộ luật Hình sự”, xem: https://lsvn.vn/vu-xam-pham-quyen-so-huu-cong-nghiep-bia-sai-gon-quyen-so-huu-tri-tue-ve-kieu-dang-cong-nghiep-phat-sinh-khi-nao1624523083.html, truy cập ngày 01/9/2021.

[3] Được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 119/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 và Nghị định số 154/2018/NĐ-CP ngày 09/11/2018 của Chính phủ.

[4] Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Xem thêm: https://investip.vn/vi/nhung-thay-doi-cua-phap-luat-hinh-su-ve-thuc-thi-quyen-so-huu-tri-tue-tai-viet-nam/.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm