1. Cơ sở pháp lý quốc tế của Cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ quát UPR
UPR là cơ chế của UNHRC - một thiết chế liên chính phủ trong hệ thống UN, có trách nhiệm tăng cường việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trên quy mô toàn cầu, giám sát đồng thời đưa ra các khuyến nghị về tình trạng vi phạm quyền con người. UNHRC bao gồm 47 quốc gia thành viên UN được Đại hội đồng UN bầu.
UNHRC được thành lập trên cơ sở Nghị quyết 60/251 ngày 15/3/2006 của Đại hội đồng UN. Một năm sau, UNHRC thông qua Nghị quyết A/HRC/RES/5/1 vào ngày 18/6/2007 hướng dẫn về tổ chức, hoạt động và cơ chế làm việc của UNHRC.Theo đó cơ chế UPR được tiến hành nhằm đánh giá tình trạng quyền con người tại các quốc gia thành viên UN.Cơ chế này sau đó được chỉnh sửa bởi Nghị quyết 16/21và Quyết định 17/119 của UNHRC[1].
Mục tiêu cuối cùng của UPR là cải thiện tình hình nhân quyền ở mỗi quốc gia. Để đạt được điều này, UPR đánh giá báo cáo của các quốc gia về nhân quyền và xem xét các vi phạm quyền con người ở bất cứ nơi nào chúng xảy ra. UPR cũng hỗ trợ kỹ thuật cho các quốc gia, tăng cường năng lực để đối phó hiệu quả với những thách thức về nhân quyền và chia sẻ kinh nghiệm giữa các quốc gia và các bên liên quan khác.
Trong chu kỳ UPR đầu tiên, tất cả các nước thành viên UN đã tiến hành kiểm điểm, với 48 quốc gia được kiểm điểm mỗi năm. Trong chu kỳ thứ hai, chính thức bắt đầu từ tháng 5 năm 2012, 42 quốc gia sẽ tiến hành kiểm điểm một năm. Quá trình kiểm điểm được tiến hành bởi Nhóm công tác UPR bao gồm 47 thành viên của UNHRC. Các phiên họp của Nhóm công tác UPR được tổ chức ba lần một năm. Trình tự kiểm điểm chu kỳ hai vẫn giống như trong chu kỳ đầu tiên. Tuy nhiên, số lượng các quốc gia kiểm điểm tại mỗi phiên là 14 thay vì 16 như chu kỳ đầu tiên. Trong quá trình kiểm điểm, bất kỳ nước thành viên UN nào cũng có thể tham gia vào các cuộc thảo luận/đối thoại với quốc gia kiểm điểm. Mỗi quốc gia kiểm điểm được hỗ trợ bởi nhóm ba quốc gia, được gọi là "troikas". Việc lựa chọn các “troikas” cho quốc gia kiểm điểm được thực hiện thông qua sự lựa chọn của các thành viên UNHRC tại Đại hội đồng UN
Cơ chế UPR sẽ đánh giá mức độ tôn trọng các cam kết quốc tế về nhân quyền của các quốc gia dựa trên: Hiến chương UN; Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền; các điều ước quốc tế về quyền con người mà quốc gia là thành viên; các cam kết tự nguyện của quốc gia về quyền con người (ví dụ như các chính sách và/hoặc các chương trình nhân quyền mà quốc gia thực hiện); và luật nhân đạo quốc tế.
Các tài liệu mà trên cơ sở đó quá trình kiểm điểm sẽ được tiến hành bao gồm: Các thông tin được cung cấp bởi quốc gia kiểm điểm dưới hình thức “Báo cáo quốc gia”; Các thông tin trong các báo cáo của các chuyên gia độc lập về quyền con người, các uỷ ban công ước và các thiết chế của UN; Các thông tin từ các bên liên quan khác bao gồm cả tổ chức nhân quyền quốc gia và tổ chức phi chính phủ.
Kết thúc quá trình kiểm điểm các khuyến nghị sẽ được đưa ra đối với quốc gia kiểm điểm. Quốc gia kiểm điểm có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận các khuyến nghị này. Đối với các khuyến nghị được chấp nhận, quốc gia kiểm điểm có tránh nhiệm phải triển khai thực hiện. Từ chu kỳ kiểm điểm thứ hai, quốc gia kiểm điểm sẽ phải nêu rõ việc thực hiện này. Cộng đồng quốc tế sẽ hỗ trợ quốc gia kiểm điểm trong việc thực hiện các khuyến nghị liên quan đến xây dựng năng lực và hỗ trợ kỹ thuật, tham vấn với các nước có liên quan. Nếu cần thiết, UNHRC sẽ quyết định về các biện pháp cần phải thực hiện trong trường hợp quốc gia kiểm điểm liên tục không hợp tác với cơ chế UPR.
2. Kinh nghiệm xây dựng báo cáo quốc gia theo Cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ quát UPR của một số nước ASEAN
2.1. Vương quốc Campuchia
Campuchia thực hiện báo cáo quốc gia đầu tiên vào năm 2009. Để chuẩn bị báo cáo quốc gia, Campuchia đã thành lập Nhóm công tác về UPR phối hợp với Uỷ ban Quyền con người quốc gia. Các cuộc họp tham vấn với các Bộ, ban ngành có liên quan cũng được triển khai. Trong cuộc họp tham vấn cuối cùng, nhiều tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực quyền con người ở Campuchia cũng được mời tham dự. Ở chu kỳ kiểm điểm đầu tiên, 91 khuyến nghị đã được đưa ra đối với Campuchia. Tất cả các khuyến nghị này đều được Campuchia chấp nhận[2].
Sau báo cáo quốc gia đầu tiên, Campuchia xây dựng và bảo vệ báo cáo lần 2 năm 2014. Trong báo cáo lần 2, Campuchia đề cập đến việc thực hiện các khuyến nghị của UPR. Báo cáo lần hai cho thấy sự phát triển liên tục trong những nỗ lực của Chính phủ Hoàng gia Campuchia nhằm cải thiện tình hình nhân quyền ở cấp quốc gia và địa phương, đồng thời giải quyết các thách thức trước mắt để đạt kết quả tốt hơn trong lĩnh vực quyền con người. Báo cáo này là kết quả của sự hợp tác giữa các bộ, cơ quan liên quan và chính quyền các tỉnh. Ủy ban quốc gia về quyền con người của Campuchia cũng tạo điều kiện cho quá trình chuẩn bị báo cáo. Báo cáo này cũng có sự đóng góp của các tổ chức xã hội dân sự và các bên liên quan khác. Chính phủ Hoàng gia Campuchia đã tổ chức cuộc họp trước đó để phổ biến thông tin về kết quả của UPR chu kỳ 1 ở nhiều vùng của Campuchia cùng với sự tham gia của tất cả các bộ/cơ quan liên quan, xã hội dân sự bao gồm các tổ chức NGO và các bên liên quan khác. Quá trình tham vấn quốc gia cho việc chuẩn bị các báo cáo UPR lần 2 diễn ra trên bảy buổi tham vấn diễn ra từ năm 2010 đến năm 2013. Tại phiên bảo vệ báo cáo lần 2 tháng 01/2014, Campuchia đã nhận được 171 khuyến nghị[3]. Hiện nay, Campuchia đang tích cực triển khai thực hiện các khuyến nghị đã được chấp nhận qua đó bảo đảm và thúc đẩy tốt hơn các quyền con người ở cấp độ quốc gia.
2.2. Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào
CHDCND Lào tham gia chu kỳ UPR đầu tiên vào năm 2010 và hoàn tất chu kỳ kiểm điểm 2 vào tháng 01/2015. Báo cáo quốc gia đầu tiên của Lào được soạn thảo theo hướng dẫn chung của UNHRC trên cơ sở Nghị quyết 5/1 ngày 18/6/2007 và Quyết định 6/102 ngày 27/9/2007. Để chuẩn bị cho báo cáo đầu tiên, Bộ Ngoại giao Lào giữ vai trò chính, kết hợp và tham vấn với các cơ quan Nhà nước cũng như các bên liên quan khác. Chính phủ Lào đã thành lập Uỷ ban quốc gia để chuẩn bị báo cáo. Uỷ ban này bao gồm đại diện của Quốc hội, các bộ và cơ quan của chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức có liên quan.
Trong quá trình chuẩn bị cho UPR, Chính phủ Lào đã cử các phái đoàn của mình tham dự một số hội thảo quốc tế và khu vực về UPR. Đoàn đại biểu Lào cũng đã đi tham quan, nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm một số nước về chuẩn bị báo cáo quốc gia. Hội thảo quốc gia nhằm nâng cao nhận thức của các cơ quan trung ương, địa phương và các bên liên quan về UPR cũng đã được tiến hành. Các cuộc tham vấn về dự thảo báo cáo quốc gia được thực hiện với sự tham gia của nhiều bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tổ chức xã hội dân sự, cơ sở giáo dục, viện nghiên cứu, và các tổ chức quốc tế có trụ sở tại Lào. Đại diện khu vực của Cao ủy nhân quyền UN cũng được mời để cho ý kiến tư vấn trong quá trình chuẩn bị.
Ở chu kỳ đầu tiên, trong tổng số 107 khuyến nghị của UNHRC, CHDCND Lào chấp nhận hoàn toàn 71 khuyến nghị, chấp nhận một phần 15 khuyến nghị, không chấp nhận 21 khuyến nghị[4]. Ngay sau khi hoàn thành chu kỳ đầu tiên, Chính phủ Lào đã coi trọng việc thực hiện các khuyến nghị được chấp nhận. Báo cáo quốc gia, báo cáo kết quả kiểm điểm và các khuyến nghị của chu kỳ đầu tiên đã được dịch sang tiếng Lào, xuất bản và phổ biến rộng rãi tới các quan chức chính phủ, các bên liên quan và công chúng. Chính phủ đã giao trách nhiệm phối hợp cho các bộ và các tổ chức nhà nước có liên quan để thực hiện các khuyến nghị UPR phù hợp với chức năng của từng cơ quan.
Báo cáo quốc gia lần 2 đã được Chính phủ Lào gửi cho UNHRC vào cuối tháng 10/2014. Báo cáo thứ hai tập trung vào việc thực hiện các khuyến nghị UPR đã được Lào chấp nhận toàn bộ hoặc một phần. Báo cáo lần hai cũng nêu bật những thách thức và khó khăn mà Lào phải đối mặt; các ưu tiên và cam kết của Lào để tăng cường sự thụ hưởng các quyền và tự do cơ bản của người dân Lào. Ban Chỉ đạo Quốc gia về nhân quyền của Lào, bao gồm các quan chức cấp cao của các Bộ thuộc Chính phủ, các tổ chức nhà nước khác, đại diện của các tổ chức quần chúng, đã đóng một vai trò trung tâm trong việc chuẩn bị Báo cáo lần hai. Báo cáo lần hai cũng trải qua quá trình lấy ý kiến tham vấn tương tự như Báo cáo đầu tiên với sự tham gia của đại diện của các cơ quan, tổ chức nhà nước ở trung ương và địa phương, các tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội dân sự, các thành viên của cộng đồng ngoại giao, đại diện các cơ quan của Liên Hợp Quốc, các tổ chức quốc tế khác và các tổ chức phi chính phủ quốc tế có trụ sở tại CHDCND Lào. Báo cáo quốc gia lần 2 của CHDCND Lào cũng nhận được sự quan tâm từ phía các quốc gia với 196 khuyến nghị[5], đa số các khuyến nghị được CHDCND Lào chấp nhận và cam kết thực hiện.
2.3. Indonesia
Báo cáo quốc gia đầu tiên của Indonesia đã được xem xét vào tháng 4/2008. Một Uỷ ban liên ngành đã được thành lập phối hợp với Bộ Ngoại giao để chuẩn bị báo cáo quốc gia theo cơ chế UPR. Uỷ ban này đã tiến hành các cuộc tham vấn với nhiều tổ chức xã hội và các nhóm hoạt động nhân quyền để có được một bức tranh tổng thể về tình hình thúc đẩy và bảo vệ quyền con người ở Indonesia. Do thời gian có hạn, Chính phủ Indonesia chỉ có thể tiến hành tham vấn với một số tổ chức xã hội dân sự ở tỉnh Aceh Nangroe Darussalam. Sau khi nộp báo cáo, Chính phủ Indonesia phổ biến các nghĩa vụ theo cơ chế UPR để tất cả các cơ quan thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia về quyền con người tại 33 tỉnh dưới sự điều phối của Bộ Luật và Quyền con người, Bộ Nội vụ, và Bộ Ngoại giao[6].
Khẳng định lại cam kết tiếp tục thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, Indonesia đệ trình Báo cáo quốc gia lần 2 trong năm 2012. Báo cáo này thể hiện những nỗ lực của Indonesia trong việc cải thiện tình hình nhân quyền trong nước cũng như trong việc giải quyết những thách thức phải đối mặt. Báo cáo quốc gia của Indonesia cho chu kỳ thứ hai là kết quả của sự hợp tác giữa các bộ, ngành liên quan cũng như chính quyền địa phương, trong đó Bộ Ngoại giao có trách nhiệm chính trong quá trình chuẩn bị báo cáo này. Báo cáo này cũng đã có sự đóng góp từ các tổ chức nhân quyền quốc gia, xã hội dân sự và các bên liên quan khác.
Trong quá trình tham vấn cho báo cáo lần hai, các cuộc họp phổ biến thông tin về kết quả của các UPR chu kỳ đầu tiên đã được tiến hành với sự tham gia của tất cả các bên liên quan, bao gồm các bộ, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức xã hội dân sự, giới học thuật... Các cuộc tham vấn này đã xác định được những bước phát triển tích cực, thách thức và khó khăn phía trước trong việc cải thiện tình hình nhân quyền ở Indonesia. Các quan điểm và ý kiến trong các cuộc tham vấn đã trở thành một trong những nội dung quan trọng của báo cáo quốc gia lần 2.
2.4. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong việc xây dựng báo cáo quốc gia
Qua quá trình xây dựng báo cáo quốc gia theo cơ chế UPR của Vương quốc Campuchia, CHDCND Lào và Indonesia, các quốc gia có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
- Cơ quan chịu trách nhiệm xây dựng báo cáo quốc gia: Quá trình chuẩn bị dự thảo báo cáo quốc gia đều được CHDCND Lào, Vương quốc Campuchia và Indonesia giao cho một Uỷ ban liên ngành với vai trò điều phối thuộc về Bộ Ngoại giao. Uỷ ban liên ngành được thành lập sẽ tăng cường sự phối kết hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc chuẩn bị báo cáo quốc gia.Việc trao trách nhiệm chính cho Uỷ ban liên ngành cùng với sự phối hợp hiệu quả với các cơ quan Nhà nước quyết định đến nội dung đầy đủ và toàn diện của Báo cáo quốc gia, đáp ứng các yêu cầu của UNHRC và các quốc gia thành viên trong toàn bộ chu trình kiểm điểm cũng như trong phiên đối thoại trực tiếp bảo vệ báo cáo quốc gia trước UNHRC.
- Sự tham vấn trong quá trình xây dựng báo cáo quốc gia: Các cuộc tham vấn với sự tham gia rộng rãi của các tổ chức xã hội dân sự trong quá trình chuẩn bị các báo cáo UPR đều được các quốc gia thực hiện.
UPR khuyến khích sự tham gia rộng rãi của nhiều chủ thể có liên quan, bao gồm cả các tổ chức xã hội dân sự, không chỉ thông qua việc cung cấp thông tin cho Báo cáo của Văn phòng Cao ủy nhân quyền Liên hợp quốc, các chủ thể này, tùy từng trường hợp, có thể được tham gia vào một số giai đoạn nhất định của quá trình kiểm điểm như: Chuẩn bị xây dựng báo cáo của quốc gia kiểm điểm, tham dự các buổi làm việc của nhóm công tác, phát biểu tại khóa họp thường kỳ của UNHRC khi thông qua báo cáo kết quả kiểm điểm... Sự tham gia rộng rãi của các tổ chức xã hội dân sự vào UPR nói chung, và chuẩn bị báo cáo quốc gia nói riêng càng đảm bảo cho UNHRC xem xét một cách khách quan việc thực hiện các nghĩa vụ và cam kết quốc tế về quyền con người của các quốc gia thành viên.
Cả ba quốc gia, CHDCND Lào, Vương quốc Campuchia và Indonesia đều triển khai nhiều cuộc họp tham vấn với sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự. Mặc dù số lượng, thời gian và phạm vi của các cuộc họp tham vấn ở ba quốc gia được triển khai ở các cấp độ khác nhau nhưng đều hướng tới mục đích cung cấp thông tin để xây dựng báo cáo quốc gia cũng như đóng góp ý kiến, bình luận, nhận xét về báo cáo sau khi đã được dự thảo. Các cuộc họp tham vấn đều được tiến hành khi các quốc gia xây dựng báo cáo ở chu kỳ UPR đầu tiên và chu kỳ tiếp theo.
- Việc thực hiện các khuyến nghị được UNHRC đưa ra sau mỗi chu kỳ kiểm điểm: Về mặt pháp lý, các khuyến nghị được UNHRC đưa ra sau mỗi chu kỳ kiểm điểm không mang tính ràng buộc quốc gia kiểm điểm. Các khuyến nghị này có thể được quốc gia kiểm điểm hoặc chấp nhận hoàn toàn, hoặc phản đối, hoặc sẽ cân nhắc. Tuy nhiên, HRC luôn khuyến khích các quốc gia kiểm điểm chấp nhận và cam kết thực hiện các khuyến nghị.
Đối với ba quốc gia, CHDCND Lào, Vương quốc Campuchia và Indonesia đều chấp nhận phần lớn các khuyến nghị được UNHRC đưa ra ở cả hai chu kỳ kiểm điểm. Các quốc gia đều coi trọng quá trình này và kết quả của quá trình thực hiện các khuyến nghị ở chu kỳ kiểm điểm đầu tiên đã được đánh giá và đưa vào nội dung báo cáo quốc gia ở chu kỳ thứ hai theo yêu cầu của UNHRC. Chắc chắn quá trình này sẽ được lặp lại khi các quốc gia tham gia chu kỳ kiểm điểm thứ ba trong những năm tiếp theo.
- Học tập kinh nghiệm quốc tế: Trong quá trình xây dựng báo cáo theo cơ chế UPR, các quốc gia đều quan tâm học hỏi kinh nghiệm quốc tế. Đối với báo cáo đầu tiên, tập trung vào các nội dung theo yêu cầu của UNHRC; đối với báo cáo lần hai, tập trung vào việc thực hiện các khuyến nghị cũng như những bước phát triển trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trên lãnh thổ quốc gia.
Các kinh nghiệm trên đây của CHDCND Lào, Vương quốc Campuchia và Indonesia thực sự là những vấn đề Việt Nam cần quan tâm trong quá trình xây dựng và bảo vệ báo cáo quốc gia theo cơ chế UPR của UNHRC.
3. Xây dựng báo cáo quốc gia của Việt Nam theo Cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ quát UPR
3.1. Quá trình soạn thảo và tham vấn báo cáo quốc gia
* Quá trình soạn thảo
Các báo cáo quốc gia của Việt Nam được soạn thảo theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 60/251 ngày 15/3/2006 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, Nghị quyết số 5/1 ngày 18/06/2007 và Quyết định số 17/119 ngày 19/6/2011 của Hội đồng Nhân quyền nhằm kiểm điểm tình hình thực hiện các quyền con người trên lãnh thổ Việt Nam.
Quá trình soạn thảo các báo cáo đầu tiên và thứ hai được thực hiện bởi Nhóm Công tác liên ngành gồm các cơ quan thuộc Chính phủ và Quốc hội liên quan trực tiếp đến việc bảo vệ, thực hiện và thúc đẩy các quyền con người: Văn phòng Chính phủ, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Nội vụ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Uỷ ban Dân tộc, Toà án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Ủy ban Pháp luật và Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội. Bộ Ngoại giao là cơ quan đầu mối soạn thảo Báo cáo.
* Quá trình tham vấn
Để chuẩn bị xây dựng báo cáo quốc gia đầu tiên, Việt Nam đã cử nhiều đoàn đi học hỏi kinh nghiệm quốc tế về soạn thảo báo cáo UPR như tham dự Hội thảo tập huấn do UN tổ chức và dự các phiên bảo vệ báo cáo UPR tại HRC; tổ chức các hội thảo trong nước có sự tham dự của chuyên gia UN và một số nước đã bảo vệ báo cáo nhằm giới thiệu về cơ chế UPR và kinh nghiệm làm báo cáo của các nước này.
Trong việc lập báo cáo quốc gia thứ hai, việc thực hiện các khuyến nghị UPR mà Việt Nam đã chấp thuận trong lần kiểm điểm đầu tiên năm 2009 đã được Thủ tướng Chính phủ giao cho từng Bộ, ngành, cơ quan liên quan. Nhiều hội thảo, hội nghị ở trung ương và địa phương đã được tổ chức nhằm giới thiệu nội dung, các biện pháp thực hiện khuyến nghị và kết quả đạt được trên thực tế. Việc thực hiện các khuyến nghị được báo cáo định kỳ hàng năm làm cơ sở cho việc xây dựng nội dung báo cáo quốc gia lần 2.
Cả hai báo cáo quốc gia (lần 1 và lần 2) của Việt Nam đều được xây dựng một cách toàn diện nhờ sự đóng góp ý kiến của các cơ quan Chính phủ, chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ và người dân. Dự thảo báo cáo đã được đăng công khai trên website của Bộ Ngoại giao. Hình thức tham vấn được lựa chọn là lấy ý kiến đóng góp qua hộp thư điện tử và qua một số cuộc họp tham vấn về nhiều chủ đề cụ thể. Quá trình tham vấn là cơ hội đối thoại cởi mở, thẳng thắn giữa Nhóm soạn thảo và tất cả các bên liên quan. Các ý kiến đóng góp được Nhóm soạn thảo tổng hợp, bổ sung vào Báo cáo. Các cuộc hội thảo quốc gia được tổ chức sau đó, đã trở thành diễn đàn để các bên quan tâm cùng trao đổi, thảo luận về nội dung báo cáo, giúp khẳng định rõ các bước phát triển mới trong việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam, đồng thời chỉ rõ các thách thức cần giải quyết và các hướng ưu tiên nhằm đem lại sự thụ hưởng tốt nhất các quyền con người của người dân.
3.2. Hình thức và nội dung chính của báo cáo quốc gia của Việt Nam
* Báo cáo quốc gia đầu tiên của Việt Nam bao gồm 5 phần chính: (i) Phương pháp soạn thảo Báo cáo quốc gia; (ii) Thông tin cơ bản về ViệtNam; (iii) Bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền ở cấp quốc gia; (iv) Các kinh nghiệm thành công và thách thức; (v) Các ưu tiên quốc gia và cam kết.
* Báo cáo quốc gia thứ hai của Việt Nam bao gồm bốn phần chính: (i) Phương pháp soạn thảo báo cáo; (ii) Tổng quan tình hình bảo đảm các quyền con người ở Việt Nam kể từ lần kiểm điểm trước; (iii) Việc tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trong thực tế; (iv) Những ưu tiên và cam kết trong việc tiếp tục thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người ở Việt Nam.
Khác với báo cáo đầu tiên, báo cáo quốc gia lần thứ hai tập trung vào việc thực hiện các khuyến nghị UPR được Việt Nam chấp nhận sau phiên kiểm điểm đầu tiên và nêu lên những bước phát triển mới trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trên lãnh thổ Việt Nam. Báo cáo cũng nêu bật những thách thức và ưu tiên của Chính phủ Việt Nam để đảm bảo việc thụ hưởng tốt hơn các quyền con người và tự do cơ bản của người dân.Cam kết của Việt Nam về nhân quyền cũng tiếp tục được đưa ra trong báo cáo quốc gia lần thứ hai. So với cam kết tại chu kỳ kiểm điểm đầu tiên, cam kết trong báo cáo lần thứ hai thể hiện những bước phát triển mới trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam:
- Tiếp tục tăng cường công tác kiện toàn hệ thống pháp luật trên nguyên tắc phát huy nhân tố con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn các quyền và tự do cơ bản của người dân, đảm bảohệ thống pháp luật quốc gia hài hoà và phù hợp với các chuẩn mực pháp luật quốc tế;
- Khả năng tiếp cận với các loại hình an sinh xã hội được xếp là một trong những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến mức sống của người dân;
- Đưa ra các chính sách quốc gia và sẽ tiếp tục đầu tư hơn nữa cho hệ thống giáo dục;
- Tập trung các chính sách và chiến lược nhằm tăng cường nhận thức về bình đẳng giới, thay đổi thái độ và tư tưởng về giới vốn là định kiến trong xã hội; thúc đẩy hợp tác quốc tế trong việc giải quyết vấn đề bình đẳng giới, đặc biệt là ở các nhóm yếu thế và trong các lĩnh vực có tính chiến lược như giáo dục, y tế, việc làm.
- Chăm sóc sức khỏe cộng đồng hướng tới một xã hội khoẻ mạnh và được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe đầy đủ cả về thể chất và tinh thần, là một trong những ưu tiên cao của Chính phủ;
- Tăng cường hợp tác quốc tế và tận dụng các nguồn lực cho việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.
3.3. Tồn tại, bất cập trong quá trình xây dựng báo cáo quốc gia và một số đề xuất
Nhìn lại quá trình xây dựng báo cáo quốc gia chu kỳ 1 và 2 có thể thấy Việt Nam đã có thêm nhiều kinh nghiệm, cũng như nhận thức đầy đủ hơn về vấn đề quyền con người trong xu thế chung của thế giới hiện nay. Để đạt được những thành công hơn nữa trong quá trình xây dựng các báo cáo quốc gia chu kỳ tiếp theo, Việt Nam cần khắc phục một số bất cập sau:
- Hệ thống pháp luật của Việt Nam nói chung và trong lĩnh vực quyền con người nói riêng còn chưa đồng bộ, có chỗ còn chồng chéo, mâu thuẫn với nhau dẫn tới khó khăn không những trong quá trình vận dụng và thực thi pháp luật, mà còn cả trong quá trình đánh giá mức độ chuyển hóa các nghĩa vụ và cam kết quốc tế về quyền con người vào pháp luật trong nước của Việt Nam. Đây là một trong những nội dung quan trọng để đánh giá việc thực hiện các nghĩa vụ, cam kết quốc tế về quyền con người của Việt Nam theo cơ chế UPR.
Nhằm khắc phục khó khăn trên, Chính phủ Việt Nam đang triển khai Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 với những sửa đổi quan trọng về quyền con người, quyền công dân cũng đã được ban hành và dần đi vào đời sống. Trước mắt, các cơ quan lập pháp Việt Nam cần thường xuyên rà soát các văn bản quy phạm pháp luật nhằm loại bỏ các văn bản mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với thực tiễn; bảo đảm tính hợp hiến, tính thống nhất, tính khả thi, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận và dễ thực hiện của các văn bản quy phạm pháp luật này. Sau đó là đẩy nhanh quá trình xây dựng các luật liên quan trực tiếp đến một số quyền cơ bản của con người như quyền lập hội và hội họp, quyền bí mật đời tư...
- Sự phối hợp giữa các cơ quan ban ngành, giữa trung ương và địa phương trong việc thực hiện điều ước quốc tế về quyền con người và tham gia vào quá trình xây dựng, bảo vệ báo cáo quốc gia theo cơ chế UPR còn chưa đồng bộ, việc thu thập thông tin, số liệu thống kê còn gặp nhiều khó khăn… Để khắc phục những vấn đề trên, bên cạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, Việt Nam cũng cần chú trọng đẩy mạnh đổi mới và tăng cường hiệu quả của bộ máy các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, các tổ chức chính trị xã hội…; củng cố cơ sở pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức này trong việc thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người nói chung và tham gia phối hợp xây dựng và bảo vệ báo cáo quốc gia theo cơ chế UPR nói riêng. Mặc dù, trách nhiệm xây dựng các báo cáo quốc gia của Việt Nam đã được giao cho Nhóm công tác liên ngành với vai trò điều phối của Bộ Ngoại giao, nhưng các báo cáo quốc gia không thể được Nhóm công tác soạn thảo một cách đầy đủ và toàn diện nếu thiếu những đánh giá, số liệu, minh chứng… về tình hình bảo đảm và thúc đẩy quyền con người trên tất cả các lĩnh vực cũng như ở tất cả các cấp đơn vị hành chính.
- Trình độ và nhận thức của một bộ phận cán bộ Nhà nước, kể cả ở trung ương và địa phương về quyền con người còn nhiều hạn chế: Không chỉ không nắm rõ các quy định của luật pháp quốc tế, nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách là quốc gia thành viên của các điều ước quốc tế về quyền con người, mà đôi khi còn nắm không chắc các quy định của luật pháp và chủ trương chính sách của Nhà nước. Một số bộ, ngành và các cấp chính quyền địa phương chưa nhận thức hết ý nghĩa, trách nhiệm thực thi nghĩa vụ, cũng như nội dung của các điều ước quốc tế về quyền con người. Bên cạnh đó, Việt Nam rất thiếu các chuyên gia có kinh nghiệm về pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật quốc tế về quyền con người nói riêng. Tất cả những điều này ảnh hưởng không nhỏ đến công tác triển khai thực hiện điều ước quốc tế về quyền con người trên thực tế, cũng như sự phối kết hợp trong quá trình xây dựng và bảo bệ báo cáo quốc gia về tình hình thực hiện các điều ước quốc tế, trong đó có báo cáo quốc gia theo cơ chế UPR.
Chính vì vậy, Việt Nam cần đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức thực thi pháp luật, đặc biệt là nắm vững những nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam đối với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Đây là điều kiện tối quan trọng bảo đảm thực thi các điều ước quốc tế về quyền con người, cũng như thực thi các nghĩa vụ theo cơ chế UPR.
- Công tác tuyên truyền về nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ báo cáo quốc gia theo cơ chế UPR của Việt Nam cần được chú trọng hơn nữa. Cơ chế UPR của UNHRC không chỉ mới mẻ đối với những người dân mà còn khá mới mẻ cả với những cán bộ, công chức nhà nước. Mặc dù đã có trang web http://uprvietnam.vn trong khuôn khổ Dự án Tăng cường năng lực thực thi các công ước về quyền con người ở Việt Nam cung cấp các thông tin cơ bản về UPR nhưng việc tuyên truyền phổ biến này cần được quan tâm hơn nữa. Công tác này không chỉ góp phần nâng cao nhận thức về quyền con người mà còn tạo điều kiện cho các tổ chức, đoàn thể nhân dân tham gia vào quá trình tham vấn lấy ý kiến đóng góp xây dựng báo cáo quốc gia kiểm điểm định kỳ việc thực hiện quyền con người. Đây cũng là yêu cầu đặt ra của cơ chế UPR đối với các quốc gia kiểm điểm, trong đó có Việt Nam.
Chu kỳ báo cáo kiểm điểm đầu tiên và thứ hai của Việt Nam theo cơ chế UPR đã được hoàn thành. Trong thời gian tới, Việt Nam cần phải nỗ lực đề ra các biện pháp hiệu quả để thực hiện các khuyến nghị UPR mà Việt Nam đã chấp nhận. Kế hoạch tổng thể thực hiện các khuyến nghị theo cơ chế UPR chu kỳ 2 đã được Chính phủ trực tiếp giao cho Bộ Ngoại giao là cơ quan chủ trì, đôn đốc việc triển khai thực hiện. Các bộ, ngành khác triển khai thực hiện trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình và theo đúng lộ trình đã được phê duyệt. Chính phủ khuyến khích các tổ chức, cá nhân gửi thông tin liên quan đến việc thực hiện các khuyến nghị UPR đến các bộ, ngành liên quan và Bộ Ngoại giao. Việc thực hiện thành công Kế hoạch tổng thể này sẽ góp phần hoàn thành nghĩa vụ của Việt Nam trong việc xây dựng vào bảo vệ báo cáo quốc gia theo cơ chế UPR và chuẩn bị cho chu kỳ báo cáo quốc gia thứ ba trong những năm tới.
UPR là cơ chế của UNHRC - một thiết chế liên chính phủ trong hệ thống UN, có trách nhiệm tăng cường việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trên quy mô toàn cầu, giám sát đồng thời đưa ra các khuyến nghị về tình trạng vi phạm quyền con người. UNHRC bao gồm 47 quốc gia thành viên UN được Đại hội đồng UN bầu.
UNHRC được thành lập trên cơ sở Nghị quyết 60/251 ngày 15/3/2006 của Đại hội đồng UN. Một năm sau, UNHRC thông qua Nghị quyết A/HRC/RES/5/1 vào ngày 18/6/2007 hướng dẫn về tổ chức, hoạt động và cơ chế làm việc của UNHRC.Theo đó cơ chế UPR được tiến hành nhằm đánh giá tình trạng quyền con người tại các quốc gia thành viên UN.Cơ chế này sau đó được chỉnh sửa bởi Nghị quyết 16/21và Quyết định 17/119 của UNHRC[1].
Mục tiêu cuối cùng của UPR là cải thiện tình hình nhân quyền ở mỗi quốc gia. Để đạt được điều này, UPR đánh giá báo cáo của các quốc gia về nhân quyền và xem xét các vi phạm quyền con người ở bất cứ nơi nào chúng xảy ra. UPR cũng hỗ trợ kỹ thuật cho các quốc gia, tăng cường năng lực để đối phó hiệu quả với những thách thức về nhân quyền và chia sẻ kinh nghiệm giữa các quốc gia và các bên liên quan khác.
Trong chu kỳ UPR đầu tiên, tất cả các nước thành viên UN đã tiến hành kiểm điểm, với 48 quốc gia được kiểm điểm mỗi năm. Trong chu kỳ thứ hai, chính thức bắt đầu từ tháng 5 năm 2012, 42 quốc gia sẽ tiến hành kiểm điểm một năm. Quá trình kiểm điểm được tiến hành bởi Nhóm công tác UPR bao gồm 47 thành viên của UNHRC. Các phiên họp của Nhóm công tác UPR được tổ chức ba lần một năm. Trình tự kiểm điểm chu kỳ hai vẫn giống như trong chu kỳ đầu tiên. Tuy nhiên, số lượng các quốc gia kiểm điểm tại mỗi phiên là 14 thay vì 16 như chu kỳ đầu tiên. Trong quá trình kiểm điểm, bất kỳ nước thành viên UN nào cũng có thể tham gia vào các cuộc thảo luận/đối thoại với quốc gia kiểm điểm. Mỗi quốc gia kiểm điểm được hỗ trợ bởi nhóm ba quốc gia, được gọi là "troikas". Việc lựa chọn các “troikas” cho quốc gia kiểm điểm được thực hiện thông qua sự lựa chọn của các thành viên UNHRC tại Đại hội đồng UN
Cơ chế UPR sẽ đánh giá mức độ tôn trọng các cam kết quốc tế về nhân quyền của các quốc gia dựa trên: Hiến chương UN; Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền; các điều ước quốc tế về quyền con người mà quốc gia là thành viên; các cam kết tự nguyện của quốc gia về quyền con người (ví dụ như các chính sách và/hoặc các chương trình nhân quyền mà quốc gia thực hiện); và luật nhân đạo quốc tế.
Các tài liệu mà trên cơ sở đó quá trình kiểm điểm sẽ được tiến hành bao gồm: Các thông tin được cung cấp bởi quốc gia kiểm điểm dưới hình thức “Báo cáo quốc gia”; Các thông tin trong các báo cáo của các chuyên gia độc lập về quyền con người, các uỷ ban công ước và các thiết chế của UN; Các thông tin từ các bên liên quan khác bao gồm cả tổ chức nhân quyền quốc gia và tổ chức phi chính phủ.
Kết thúc quá trình kiểm điểm các khuyến nghị sẽ được đưa ra đối với quốc gia kiểm điểm. Quốc gia kiểm điểm có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận các khuyến nghị này. Đối với các khuyến nghị được chấp nhận, quốc gia kiểm điểm có tránh nhiệm phải triển khai thực hiện. Từ chu kỳ kiểm điểm thứ hai, quốc gia kiểm điểm sẽ phải nêu rõ việc thực hiện này. Cộng đồng quốc tế sẽ hỗ trợ quốc gia kiểm điểm trong việc thực hiện các khuyến nghị liên quan đến xây dựng năng lực và hỗ trợ kỹ thuật, tham vấn với các nước có liên quan. Nếu cần thiết, UNHRC sẽ quyết định về các biện pháp cần phải thực hiện trong trường hợp quốc gia kiểm điểm liên tục không hợp tác với cơ chế UPR.
2. Kinh nghiệm xây dựng báo cáo quốc gia theo Cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ quát UPR của một số nước ASEAN
2.1. Vương quốc Campuchia
Campuchia thực hiện báo cáo quốc gia đầu tiên vào năm 2009. Để chuẩn bị báo cáo quốc gia, Campuchia đã thành lập Nhóm công tác về UPR phối hợp với Uỷ ban Quyền con người quốc gia. Các cuộc họp tham vấn với các Bộ, ban ngành có liên quan cũng được triển khai. Trong cuộc họp tham vấn cuối cùng, nhiều tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực quyền con người ở Campuchia cũng được mời tham dự. Ở chu kỳ kiểm điểm đầu tiên, 91 khuyến nghị đã được đưa ra đối với Campuchia. Tất cả các khuyến nghị này đều được Campuchia chấp nhận[2].
Sau báo cáo quốc gia đầu tiên, Campuchia xây dựng và bảo vệ báo cáo lần 2 năm 2014. Trong báo cáo lần 2, Campuchia đề cập đến việc thực hiện các khuyến nghị của UPR. Báo cáo lần hai cho thấy sự phát triển liên tục trong những nỗ lực của Chính phủ Hoàng gia Campuchia nhằm cải thiện tình hình nhân quyền ở cấp quốc gia và địa phương, đồng thời giải quyết các thách thức trước mắt để đạt kết quả tốt hơn trong lĩnh vực quyền con người. Báo cáo này là kết quả của sự hợp tác giữa các bộ, cơ quan liên quan và chính quyền các tỉnh. Ủy ban quốc gia về quyền con người của Campuchia cũng tạo điều kiện cho quá trình chuẩn bị báo cáo. Báo cáo này cũng có sự đóng góp của các tổ chức xã hội dân sự và các bên liên quan khác. Chính phủ Hoàng gia Campuchia đã tổ chức cuộc họp trước đó để phổ biến thông tin về kết quả của UPR chu kỳ 1 ở nhiều vùng của Campuchia cùng với sự tham gia của tất cả các bộ/cơ quan liên quan, xã hội dân sự bao gồm các tổ chức NGO và các bên liên quan khác. Quá trình tham vấn quốc gia cho việc chuẩn bị các báo cáo UPR lần 2 diễn ra trên bảy buổi tham vấn diễn ra từ năm 2010 đến năm 2013. Tại phiên bảo vệ báo cáo lần 2 tháng 01/2014, Campuchia đã nhận được 171 khuyến nghị[3]. Hiện nay, Campuchia đang tích cực triển khai thực hiện các khuyến nghị đã được chấp nhận qua đó bảo đảm và thúc đẩy tốt hơn các quyền con người ở cấp độ quốc gia.
2.2. Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào
CHDCND Lào tham gia chu kỳ UPR đầu tiên vào năm 2010 và hoàn tất chu kỳ kiểm điểm 2 vào tháng 01/2015. Báo cáo quốc gia đầu tiên của Lào được soạn thảo theo hướng dẫn chung của UNHRC trên cơ sở Nghị quyết 5/1 ngày 18/6/2007 và Quyết định 6/102 ngày 27/9/2007. Để chuẩn bị cho báo cáo đầu tiên, Bộ Ngoại giao Lào giữ vai trò chính, kết hợp và tham vấn với các cơ quan Nhà nước cũng như các bên liên quan khác. Chính phủ Lào đã thành lập Uỷ ban quốc gia để chuẩn bị báo cáo. Uỷ ban này bao gồm đại diện của Quốc hội, các bộ và cơ quan của chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức có liên quan.
Trong quá trình chuẩn bị cho UPR, Chính phủ Lào đã cử các phái đoàn của mình tham dự một số hội thảo quốc tế và khu vực về UPR. Đoàn đại biểu Lào cũng đã đi tham quan, nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm một số nước về chuẩn bị báo cáo quốc gia. Hội thảo quốc gia nhằm nâng cao nhận thức của các cơ quan trung ương, địa phương và các bên liên quan về UPR cũng đã được tiến hành. Các cuộc tham vấn về dự thảo báo cáo quốc gia được thực hiện với sự tham gia của nhiều bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tổ chức xã hội dân sự, cơ sở giáo dục, viện nghiên cứu, và các tổ chức quốc tế có trụ sở tại Lào. Đại diện khu vực của Cao ủy nhân quyền UN cũng được mời để cho ý kiến tư vấn trong quá trình chuẩn bị.
Ở chu kỳ đầu tiên, trong tổng số 107 khuyến nghị của UNHRC, CHDCND Lào chấp nhận hoàn toàn 71 khuyến nghị, chấp nhận một phần 15 khuyến nghị, không chấp nhận 21 khuyến nghị[4]. Ngay sau khi hoàn thành chu kỳ đầu tiên, Chính phủ Lào đã coi trọng việc thực hiện các khuyến nghị được chấp nhận. Báo cáo quốc gia, báo cáo kết quả kiểm điểm và các khuyến nghị của chu kỳ đầu tiên đã được dịch sang tiếng Lào, xuất bản và phổ biến rộng rãi tới các quan chức chính phủ, các bên liên quan và công chúng. Chính phủ đã giao trách nhiệm phối hợp cho các bộ và các tổ chức nhà nước có liên quan để thực hiện các khuyến nghị UPR phù hợp với chức năng của từng cơ quan.
Báo cáo quốc gia lần 2 đã được Chính phủ Lào gửi cho UNHRC vào cuối tháng 10/2014. Báo cáo thứ hai tập trung vào việc thực hiện các khuyến nghị UPR đã được Lào chấp nhận toàn bộ hoặc một phần. Báo cáo lần hai cũng nêu bật những thách thức và khó khăn mà Lào phải đối mặt; các ưu tiên và cam kết của Lào để tăng cường sự thụ hưởng các quyền và tự do cơ bản của người dân Lào. Ban Chỉ đạo Quốc gia về nhân quyền của Lào, bao gồm các quan chức cấp cao của các Bộ thuộc Chính phủ, các tổ chức nhà nước khác, đại diện của các tổ chức quần chúng, đã đóng một vai trò trung tâm trong việc chuẩn bị Báo cáo lần hai. Báo cáo lần hai cũng trải qua quá trình lấy ý kiến tham vấn tương tự như Báo cáo đầu tiên với sự tham gia của đại diện của các cơ quan, tổ chức nhà nước ở trung ương và địa phương, các tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội dân sự, các thành viên của cộng đồng ngoại giao, đại diện các cơ quan của Liên Hợp Quốc, các tổ chức quốc tế khác và các tổ chức phi chính phủ quốc tế có trụ sở tại CHDCND Lào. Báo cáo quốc gia lần 2 của CHDCND Lào cũng nhận được sự quan tâm từ phía các quốc gia với 196 khuyến nghị[5], đa số các khuyến nghị được CHDCND Lào chấp nhận và cam kết thực hiện.
2.3. Indonesia
Báo cáo quốc gia đầu tiên của Indonesia đã được xem xét vào tháng 4/2008. Một Uỷ ban liên ngành đã được thành lập phối hợp với Bộ Ngoại giao để chuẩn bị báo cáo quốc gia theo cơ chế UPR. Uỷ ban này đã tiến hành các cuộc tham vấn với nhiều tổ chức xã hội và các nhóm hoạt động nhân quyền để có được một bức tranh tổng thể về tình hình thúc đẩy và bảo vệ quyền con người ở Indonesia. Do thời gian có hạn, Chính phủ Indonesia chỉ có thể tiến hành tham vấn với một số tổ chức xã hội dân sự ở tỉnh Aceh Nangroe Darussalam. Sau khi nộp báo cáo, Chính phủ Indonesia phổ biến các nghĩa vụ theo cơ chế UPR để tất cả các cơ quan thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia về quyền con người tại 33 tỉnh dưới sự điều phối của Bộ Luật và Quyền con người, Bộ Nội vụ, và Bộ Ngoại giao[6].
Khẳng định lại cam kết tiếp tục thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, Indonesia đệ trình Báo cáo quốc gia lần 2 trong năm 2012. Báo cáo này thể hiện những nỗ lực của Indonesia trong việc cải thiện tình hình nhân quyền trong nước cũng như trong việc giải quyết những thách thức phải đối mặt. Báo cáo quốc gia của Indonesia cho chu kỳ thứ hai là kết quả của sự hợp tác giữa các bộ, ngành liên quan cũng như chính quyền địa phương, trong đó Bộ Ngoại giao có trách nhiệm chính trong quá trình chuẩn bị báo cáo này. Báo cáo này cũng đã có sự đóng góp từ các tổ chức nhân quyền quốc gia, xã hội dân sự và các bên liên quan khác.
Trong quá trình tham vấn cho báo cáo lần hai, các cuộc họp phổ biến thông tin về kết quả của các UPR chu kỳ đầu tiên đã được tiến hành với sự tham gia của tất cả các bên liên quan, bao gồm các bộ, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức xã hội dân sự, giới học thuật... Các cuộc tham vấn này đã xác định được những bước phát triển tích cực, thách thức và khó khăn phía trước trong việc cải thiện tình hình nhân quyền ở Indonesia. Các quan điểm và ý kiến trong các cuộc tham vấn đã trở thành một trong những nội dung quan trọng của báo cáo quốc gia lần 2.
2.4. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong việc xây dựng báo cáo quốc gia
Qua quá trình xây dựng báo cáo quốc gia theo cơ chế UPR của Vương quốc Campuchia, CHDCND Lào và Indonesia, các quốc gia có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
- Cơ quan chịu trách nhiệm xây dựng báo cáo quốc gia: Quá trình chuẩn bị dự thảo báo cáo quốc gia đều được CHDCND Lào, Vương quốc Campuchia và Indonesia giao cho một Uỷ ban liên ngành với vai trò điều phối thuộc về Bộ Ngoại giao. Uỷ ban liên ngành được thành lập sẽ tăng cường sự phối kết hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc chuẩn bị báo cáo quốc gia.Việc trao trách nhiệm chính cho Uỷ ban liên ngành cùng với sự phối hợp hiệu quả với các cơ quan Nhà nước quyết định đến nội dung đầy đủ và toàn diện của Báo cáo quốc gia, đáp ứng các yêu cầu của UNHRC và các quốc gia thành viên trong toàn bộ chu trình kiểm điểm cũng như trong phiên đối thoại trực tiếp bảo vệ báo cáo quốc gia trước UNHRC.
- Sự tham vấn trong quá trình xây dựng báo cáo quốc gia: Các cuộc tham vấn với sự tham gia rộng rãi của các tổ chức xã hội dân sự trong quá trình chuẩn bị các báo cáo UPR đều được các quốc gia thực hiện.
UPR khuyến khích sự tham gia rộng rãi của nhiều chủ thể có liên quan, bao gồm cả các tổ chức xã hội dân sự, không chỉ thông qua việc cung cấp thông tin cho Báo cáo của Văn phòng Cao ủy nhân quyền Liên hợp quốc, các chủ thể này, tùy từng trường hợp, có thể được tham gia vào một số giai đoạn nhất định của quá trình kiểm điểm như: Chuẩn bị xây dựng báo cáo của quốc gia kiểm điểm, tham dự các buổi làm việc của nhóm công tác, phát biểu tại khóa họp thường kỳ của UNHRC khi thông qua báo cáo kết quả kiểm điểm... Sự tham gia rộng rãi của các tổ chức xã hội dân sự vào UPR nói chung, và chuẩn bị báo cáo quốc gia nói riêng càng đảm bảo cho UNHRC xem xét một cách khách quan việc thực hiện các nghĩa vụ và cam kết quốc tế về quyền con người của các quốc gia thành viên.
Cả ba quốc gia, CHDCND Lào, Vương quốc Campuchia và Indonesia đều triển khai nhiều cuộc họp tham vấn với sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự. Mặc dù số lượng, thời gian và phạm vi của các cuộc họp tham vấn ở ba quốc gia được triển khai ở các cấp độ khác nhau nhưng đều hướng tới mục đích cung cấp thông tin để xây dựng báo cáo quốc gia cũng như đóng góp ý kiến, bình luận, nhận xét về báo cáo sau khi đã được dự thảo. Các cuộc họp tham vấn đều được tiến hành khi các quốc gia xây dựng báo cáo ở chu kỳ UPR đầu tiên và chu kỳ tiếp theo.
- Việc thực hiện các khuyến nghị được UNHRC đưa ra sau mỗi chu kỳ kiểm điểm: Về mặt pháp lý, các khuyến nghị được UNHRC đưa ra sau mỗi chu kỳ kiểm điểm không mang tính ràng buộc quốc gia kiểm điểm. Các khuyến nghị này có thể được quốc gia kiểm điểm hoặc chấp nhận hoàn toàn, hoặc phản đối, hoặc sẽ cân nhắc. Tuy nhiên, HRC luôn khuyến khích các quốc gia kiểm điểm chấp nhận và cam kết thực hiện các khuyến nghị.
Đối với ba quốc gia, CHDCND Lào, Vương quốc Campuchia và Indonesia đều chấp nhận phần lớn các khuyến nghị được UNHRC đưa ra ở cả hai chu kỳ kiểm điểm. Các quốc gia đều coi trọng quá trình này và kết quả của quá trình thực hiện các khuyến nghị ở chu kỳ kiểm điểm đầu tiên đã được đánh giá và đưa vào nội dung báo cáo quốc gia ở chu kỳ thứ hai theo yêu cầu của UNHRC. Chắc chắn quá trình này sẽ được lặp lại khi các quốc gia tham gia chu kỳ kiểm điểm thứ ba trong những năm tiếp theo.
- Học tập kinh nghiệm quốc tế: Trong quá trình xây dựng báo cáo theo cơ chế UPR, các quốc gia đều quan tâm học hỏi kinh nghiệm quốc tế. Đối với báo cáo đầu tiên, tập trung vào các nội dung theo yêu cầu của UNHRC; đối với báo cáo lần hai, tập trung vào việc thực hiện các khuyến nghị cũng như những bước phát triển trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trên lãnh thổ quốc gia.
Các kinh nghiệm trên đây của CHDCND Lào, Vương quốc Campuchia và Indonesia thực sự là những vấn đề Việt Nam cần quan tâm trong quá trình xây dựng và bảo vệ báo cáo quốc gia theo cơ chế UPR của UNHRC.
3. Xây dựng báo cáo quốc gia của Việt Nam theo Cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ quát UPR
3.1. Quá trình soạn thảo và tham vấn báo cáo quốc gia
* Quá trình soạn thảo
Các báo cáo quốc gia của Việt Nam được soạn thảo theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 60/251 ngày 15/3/2006 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, Nghị quyết số 5/1 ngày 18/06/2007 và Quyết định số 17/119 ngày 19/6/2011 của Hội đồng Nhân quyền nhằm kiểm điểm tình hình thực hiện các quyền con người trên lãnh thổ Việt Nam.
Quá trình soạn thảo các báo cáo đầu tiên và thứ hai được thực hiện bởi Nhóm Công tác liên ngành gồm các cơ quan thuộc Chính phủ và Quốc hội liên quan trực tiếp đến việc bảo vệ, thực hiện và thúc đẩy các quyền con người: Văn phòng Chính phủ, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Nội vụ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Uỷ ban Dân tộc, Toà án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Ủy ban Pháp luật và Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội. Bộ Ngoại giao là cơ quan đầu mối soạn thảo Báo cáo.
* Quá trình tham vấn
Để chuẩn bị xây dựng báo cáo quốc gia đầu tiên, Việt Nam đã cử nhiều đoàn đi học hỏi kinh nghiệm quốc tế về soạn thảo báo cáo UPR như tham dự Hội thảo tập huấn do UN tổ chức và dự các phiên bảo vệ báo cáo UPR tại HRC; tổ chức các hội thảo trong nước có sự tham dự của chuyên gia UN và một số nước đã bảo vệ báo cáo nhằm giới thiệu về cơ chế UPR và kinh nghiệm làm báo cáo của các nước này.
Trong việc lập báo cáo quốc gia thứ hai, việc thực hiện các khuyến nghị UPR mà Việt Nam đã chấp thuận trong lần kiểm điểm đầu tiên năm 2009 đã được Thủ tướng Chính phủ giao cho từng Bộ, ngành, cơ quan liên quan. Nhiều hội thảo, hội nghị ở trung ương và địa phương đã được tổ chức nhằm giới thiệu nội dung, các biện pháp thực hiện khuyến nghị và kết quả đạt được trên thực tế. Việc thực hiện các khuyến nghị được báo cáo định kỳ hàng năm làm cơ sở cho việc xây dựng nội dung báo cáo quốc gia lần 2.
Cả hai báo cáo quốc gia (lần 1 và lần 2) của Việt Nam đều được xây dựng một cách toàn diện nhờ sự đóng góp ý kiến của các cơ quan Chính phủ, chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ và người dân. Dự thảo báo cáo đã được đăng công khai trên website của Bộ Ngoại giao. Hình thức tham vấn được lựa chọn là lấy ý kiến đóng góp qua hộp thư điện tử và qua một số cuộc họp tham vấn về nhiều chủ đề cụ thể. Quá trình tham vấn là cơ hội đối thoại cởi mở, thẳng thắn giữa Nhóm soạn thảo và tất cả các bên liên quan. Các ý kiến đóng góp được Nhóm soạn thảo tổng hợp, bổ sung vào Báo cáo. Các cuộc hội thảo quốc gia được tổ chức sau đó, đã trở thành diễn đàn để các bên quan tâm cùng trao đổi, thảo luận về nội dung báo cáo, giúp khẳng định rõ các bước phát triển mới trong việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam, đồng thời chỉ rõ các thách thức cần giải quyết và các hướng ưu tiên nhằm đem lại sự thụ hưởng tốt nhất các quyền con người của người dân.
3.2. Hình thức và nội dung chính của báo cáo quốc gia của Việt Nam
* Báo cáo quốc gia đầu tiên của Việt Nam bao gồm 5 phần chính: (i) Phương pháp soạn thảo Báo cáo quốc gia; (ii) Thông tin cơ bản về ViệtNam; (iii) Bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền ở cấp quốc gia; (iv) Các kinh nghiệm thành công và thách thức; (v) Các ưu tiên quốc gia và cam kết.
* Báo cáo quốc gia thứ hai của Việt Nam bao gồm bốn phần chính: (i) Phương pháp soạn thảo báo cáo; (ii) Tổng quan tình hình bảo đảm các quyền con người ở Việt Nam kể từ lần kiểm điểm trước; (iii) Việc tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trong thực tế; (iv) Những ưu tiên và cam kết trong việc tiếp tục thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người ở Việt Nam.
Khác với báo cáo đầu tiên, báo cáo quốc gia lần thứ hai tập trung vào việc thực hiện các khuyến nghị UPR được Việt Nam chấp nhận sau phiên kiểm điểm đầu tiên và nêu lên những bước phát triển mới trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trên lãnh thổ Việt Nam. Báo cáo cũng nêu bật những thách thức và ưu tiên của Chính phủ Việt Nam để đảm bảo việc thụ hưởng tốt hơn các quyền con người và tự do cơ bản của người dân.Cam kết của Việt Nam về nhân quyền cũng tiếp tục được đưa ra trong báo cáo quốc gia lần thứ hai. So với cam kết tại chu kỳ kiểm điểm đầu tiên, cam kết trong báo cáo lần thứ hai thể hiện những bước phát triển mới trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam:
- Tiếp tục tăng cường công tác kiện toàn hệ thống pháp luật trên nguyên tắc phát huy nhân tố con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn các quyền và tự do cơ bản của người dân, đảm bảohệ thống pháp luật quốc gia hài hoà và phù hợp với các chuẩn mực pháp luật quốc tế;
- Khả năng tiếp cận với các loại hình an sinh xã hội được xếp là một trong những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến mức sống của người dân;
- Đưa ra các chính sách quốc gia và sẽ tiếp tục đầu tư hơn nữa cho hệ thống giáo dục;
- Tập trung các chính sách và chiến lược nhằm tăng cường nhận thức về bình đẳng giới, thay đổi thái độ và tư tưởng về giới vốn là định kiến trong xã hội; thúc đẩy hợp tác quốc tế trong việc giải quyết vấn đề bình đẳng giới, đặc biệt là ở các nhóm yếu thế và trong các lĩnh vực có tính chiến lược như giáo dục, y tế, việc làm.
- Chăm sóc sức khỏe cộng đồng hướng tới một xã hội khoẻ mạnh và được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe đầy đủ cả về thể chất và tinh thần, là một trong những ưu tiên cao của Chính phủ;
- Tăng cường hợp tác quốc tế và tận dụng các nguồn lực cho việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.
3.3. Tồn tại, bất cập trong quá trình xây dựng báo cáo quốc gia và một số đề xuất
Nhìn lại quá trình xây dựng báo cáo quốc gia chu kỳ 1 và 2 có thể thấy Việt Nam đã có thêm nhiều kinh nghiệm, cũng như nhận thức đầy đủ hơn về vấn đề quyền con người trong xu thế chung của thế giới hiện nay. Để đạt được những thành công hơn nữa trong quá trình xây dựng các báo cáo quốc gia chu kỳ tiếp theo, Việt Nam cần khắc phục một số bất cập sau:
- Hệ thống pháp luật của Việt Nam nói chung và trong lĩnh vực quyền con người nói riêng còn chưa đồng bộ, có chỗ còn chồng chéo, mâu thuẫn với nhau dẫn tới khó khăn không những trong quá trình vận dụng và thực thi pháp luật, mà còn cả trong quá trình đánh giá mức độ chuyển hóa các nghĩa vụ và cam kết quốc tế về quyền con người vào pháp luật trong nước của Việt Nam. Đây là một trong những nội dung quan trọng để đánh giá việc thực hiện các nghĩa vụ, cam kết quốc tế về quyền con người của Việt Nam theo cơ chế UPR.
Nhằm khắc phục khó khăn trên, Chính phủ Việt Nam đang triển khai Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 với những sửa đổi quan trọng về quyền con người, quyền công dân cũng đã được ban hành và dần đi vào đời sống. Trước mắt, các cơ quan lập pháp Việt Nam cần thường xuyên rà soát các văn bản quy phạm pháp luật nhằm loại bỏ các văn bản mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với thực tiễn; bảo đảm tính hợp hiến, tính thống nhất, tính khả thi, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận và dễ thực hiện của các văn bản quy phạm pháp luật này. Sau đó là đẩy nhanh quá trình xây dựng các luật liên quan trực tiếp đến một số quyền cơ bản của con người như quyền lập hội và hội họp, quyền bí mật đời tư...
- Sự phối hợp giữa các cơ quan ban ngành, giữa trung ương và địa phương trong việc thực hiện điều ước quốc tế về quyền con người và tham gia vào quá trình xây dựng, bảo vệ báo cáo quốc gia theo cơ chế UPR còn chưa đồng bộ, việc thu thập thông tin, số liệu thống kê còn gặp nhiều khó khăn… Để khắc phục những vấn đề trên, bên cạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, Việt Nam cũng cần chú trọng đẩy mạnh đổi mới và tăng cường hiệu quả của bộ máy các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, các tổ chức chính trị xã hội…; củng cố cơ sở pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức này trong việc thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người nói chung và tham gia phối hợp xây dựng và bảo vệ báo cáo quốc gia theo cơ chế UPR nói riêng. Mặc dù, trách nhiệm xây dựng các báo cáo quốc gia của Việt Nam đã được giao cho Nhóm công tác liên ngành với vai trò điều phối của Bộ Ngoại giao, nhưng các báo cáo quốc gia không thể được Nhóm công tác soạn thảo một cách đầy đủ và toàn diện nếu thiếu những đánh giá, số liệu, minh chứng… về tình hình bảo đảm và thúc đẩy quyền con người trên tất cả các lĩnh vực cũng như ở tất cả các cấp đơn vị hành chính.
- Trình độ và nhận thức của một bộ phận cán bộ Nhà nước, kể cả ở trung ương và địa phương về quyền con người còn nhiều hạn chế: Không chỉ không nắm rõ các quy định của luật pháp quốc tế, nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách là quốc gia thành viên của các điều ước quốc tế về quyền con người, mà đôi khi còn nắm không chắc các quy định của luật pháp và chủ trương chính sách của Nhà nước. Một số bộ, ngành và các cấp chính quyền địa phương chưa nhận thức hết ý nghĩa, trách nhiệm thực thi nghĩa vụ, cũng như nội dung của các điều ước quốc tế về quyền con người. Bên cạnh đó, Việt Nam rất thiếu các chuyên gia có kinh nghiệm về pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật quốc tế về quyền con người nói riêng. Tất cả những điều này ảnh hưởng không nhỏ đến công tác triển khai thực hiện điều ước quốc tế về quyền con người trên thực tế, cũng như sự phối kết hợp trong quá trình xây dựng và bảo bệ báo cáo quốc gia về tình hình thực hiện các điều ước quốc tế, trong đó có báo cáo quốc gia theo cơ chế UPR.
Chính vì vậy, Việt Nam cần đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức thực thi pháp luật, đặc biệt là nắm vững những nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam đối với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Đây là điều kiện tối quan trọng bảo đảm thực thi các điều ước quốc tế về quyền con người, cũng như thực thi các nghĩa vụ theo cơ chế UPR.
- Công tác tuyên truyền về nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ báo cáo quốc gia theo cơ chế UPR của Việt Nam cần được chú trọng hơn nữa. Cơ chế UPR của UNHRC không chỉ mới mẻ đối với những người dân mà còn khá mới mẻ cả với những cán bộ, công chức nhà nước. Mặc dù đã có trang web http://uprvietnam.vn trong khuôn khổ Dự án Tăng cường năng lực thực thi các công ước về quyền con người ở Việt Nam cung cấp các thông tin cơ bản về UPR nhưng việc tuyên truyền phổ biến này cần được quan tâm hơn nữa. Công tác này không chỉ góp phần nâng cao nhận thức về quyền con người mà còn tạo điều kiện cho các tổ chức, đoàn thể nhân dân tham gia vào quá trình tham vấn lấy ý kiến đóng góp xây dựng báo cáo quốc gia kiểm điểm định kỳ việc thực hiện quyền con người. Đây cũng là yêu cầu đặt ra của cơ chế UPR đối với các quốc gia kiểm điểm, trong đó có Việt Nam.
Chu kỳ báo cáo kiểm điểm đầu tiên và thứ hai của Việt Nam theo cơ chế UPR đã được hoàn thành. Trong thời gian tới, Việt Nam cần phải nỗ lực đề ra các biện pháp hiệu quả để thực hiện các khuyến nghị UPR mà Việt Nam đã chấp nhận. Kế hoạch tổng thể thực hiện các khuyến nghị theo cơ chế UPR chu kỳ 2 đã được Chính phủ trực tiếp giao cho Bộ Ngoại giao là cơ quan chủ trì, đôn đốc việc triển khai thực hiện. Các bộ, ngành khác triển khai thực hiện trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình và theo đúng lộ trình đã được phê duyệt. Chính phủ khuyến khích các tổ chức, cá nhân gửi thông tin liên quan đến việc thực hiện các khuyến nghị UPR đến các bộ, ngành liên quan và Bộ Ngoại giao. Việc thực hiện thành công Kế hoạch tổng thể này sẽ góp phần hoàn thành nghĩa vụ của Việt Nam trong việc xây dựng vào bảo vệ báo cáo quốc gia theo cơ chế UPR và chuẩn bị cho chu kỳ báo cáo quốc gia thứ ba trong những năm tới.
TS. Nguyễn Thị Kim Ngân
Khoa Pháp luật quốc tế - Trường ĐH Luật Hà Nội
Khoa Pháp luật quốc tế - Trường ĐH Luật Hà Nội
[1] Theo Nghị quyết A/HRC/RES/5/1, chu kỳ đánh giá là 4 năm một lần. Hiện nay, theo Nghị quyết 16/21và Quyết định 17/119 của UNHRC, chu kỳ đánh giá là 4 năm rưỡi.
[2] Universal Periodic Review - Cambodia http://www.ohchr.org/EN/HRBodies/UPR/PAGES/KHSession6.aspx
[3] Universal Periodic Review Second Cycle– Cambodiahttp://www.ohchr.org/EN/HRBodies/UPR/Pages/KHSession18.aspx
[4] Universal Periodic Review – Lao People’s Democratic Republic http://www.ohchr.org/EN/HRBodies/UPR/Pages/LASession8.aspx
[5] Universal Periodic Review Second Cycle – Lao People’s Democratic Republic http://www.ohchr.org/EN/HRBodies/UPR/Pages/LASession21.aspx
[6] Universal Periodic Review – Indonesia http://www.ohchr.org/EN/HRBodies/UPR/Pages/IDSession1.aspx