1. Chủ trương, định hướng của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
Trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào, bất kỳ lĩnh vực, địa phương nào, công tác cán bộ bao giờ cũng đóng vai trò quyết định, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng, là mắt xích trọng yếu trong toàn bộ hoạt động của Đảng, nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng[1]. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi việc”; “muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”; “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”[2]. Để đáp ứng yêu cầu cách mạng trong từng thời kỳ, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương về xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ. Cụ thể hóa các mục tiêu chiến lược xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, Nghị quyết số 03-NQ/HNTW ngày 18/6/1997 của Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh (Nghị quyết số 03-NQ/HNTW) và Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ đã xác định mục tiêu: Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ, đủ sức lãnh đạo đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (năm 2021) của Đảng tiếp tục xác định một trong ba đột phá chiến lược là: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài”; đồng thời xác định: Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách đãi ngộ, tạo môi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục vụ phát triển; có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung. Đồng thời, có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín đối với nhân dân.
Trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp, Đảng đã ban hành nhiều chủ trương, định hướng về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của các cơ quan pháp luật và tư pháp[3]. Đặc biệt, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW) xác định: Mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính và nhiệm vụ trọng tâm là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật. Nghị quyết số 27-NQ/TW cũng đặt ra các nhiệm vụ cụ thể về: Phát triển nguồn nhân lực pháp luật, hiện đại hóa phương thức, phương tiện xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật. Củng cố, kiện toàn tổ chức pháp chế, tổ chức làm công tác pháp luật; nâng cao năng lực, trình độ, bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Phát triển nhân lực tư pháp đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, có cơ cấu hợp lý. Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực tư pháp. Xác định rõ hệ tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp, kiến thức pháp luật, kinh tế, xã hội và kinh nghiệm thực tiễn đối với từng chức danh, nhân lực tư pháp. Kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và cán bộ, công chức, viên chức. Thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW và Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 12/5/2023 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW (Nghị quyết số 77/NQ-CP), Ban Cán sự Đảng và Bộ Tư pháp đã ban hành Chương trình hành động số 82-CTr/BCSĐ ngày 22/5/2023 và Quyết định số 764/QĐ-BTP ngày 22/5/2023 ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, đã xác định rõ nhiệm vụ, giải pháp phải tập trung thực hiện nâng cao năng lực cho đội ngũ công chức, viên chức, người lao động của Bộ, Ngành Tư pháp; tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, cải tiến lề lối làm việc, bảo đảm thực hiện có hiệu quả mục tiêu, yêu cầu của Nghị quyết.
2. Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp
Hiện nay, Bộ Tư pháp có 30 đơn vị trực thuộc Bộ. Tính đến đầu năm 2023, Bộ Tư pháp có 10.475 công chức, viên chức, trong đó có 527 công chức các đơn vị hành chính, 1.023 viên chức sự nghiệp và 8.925 công chức, viên chức cơ quan thi hành án dân sự (THADS) địa phương. Bộ Tư pháp có 06 lãnh đạo Bộ; 109 lãnh đạo cấp vụ, 304 lãnh đạo cấp phòng; 95 chuyên viên cao cấp và tương đương; 374 chuyên viên chính và tương đương; 1.086 chuyên viên và tương đương; có 03 giáo sư, 31 phó giáo sư, 169 tiến sĩ, 792 thạc sĩ và 560 cử nhân. Hệ thống THADS có 05 lãnh đạo Tổng cục, 209 lãnh đạo cấp Vụ, Cục thuộc và trực thuộc Tổng cục; 2.166 lãnh đạo cấp phòng, Chi cục THADS và tương đương thuộc và trực thuộc Cục THADS; 56 chấp hành viên cao cấp và tương đương, 1.715 chấp hành viên trung cấp và tương đương, 3.318 chấp hành viên sơ cấp và tương đương; 97 tiến sĩ, 749 thạc sĩ, 7.378 cử nhân.
Tại địa phương, tính đến tháng 10/2023, số công chức, viên chức của Sở Tư pháp là 4.210 người, trung bình mỗi Sở Tư pháp có 67 công chức, viên chức (trong đó, trung bình số công chức của mỗi Sở Tư pháp là 30,9 người); trình độ chuyên môn Luật của công chức Sở Tư pháp là 3.746/4.210 người (tương đương 89%), trình độ chuyên môn khác là 464/4.210 người (tương đương 11%). Số công chức của Phòng Tư pháp là 2.864 người, bình quân là 4,08 người/Phòng Tư pháp; số công chức trình độ chuyên môn Luật chiếm 95% tổng số công chức. Số công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã là 17.058 người, trong đó, số công chức có trình độ chuyên môn Luật chiếm khoảng 95% và trình độ khác chiếm khoảng 5%.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao, trong thời gian qua, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp từng bước được tăng cường, chuẩn hóa theo tiêu chuẩn chức danh đảm nhận. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức tốt, có ý thức tổ chức kỷ luật, tu dưỡng, rèn luyện; trình độ, năng lực ngày càng được nâng lên, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhiều cán bộ, công chức, viên chức năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Đa số lãnh đạo có năng lực, phẩm chất, uy tín. Phần lớn công chức, viên chức Ngành Tư pháp được đánh giá hoàn thành tốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hàng năm, qua đó đã đóng góp chung vào những kết quả, thành tựu công tác của Bộ, Ngành Tư pháp.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp còn những hạn chế nhất định. Trong bối cảnh khối lượng công việc được giao ngày càng nhiều, tính chất công việc ngày càng phức tạp với yêu cầu tiến độ hết sức khẩn trương, chức năng, nhiệm vụ của Bộ, Ngành Tư pháp ngày càng được mở rộng, tăng cường, song biên chế không được bổ sung, đồng thời phải thực hiện cắt giảm biên chế hàng năm dẫn đến hiện tượng công chức, viên chức có sự quá tải trong công việc, ảnh hưởng nhất định đến chất lượng thực hiện nhiệm vụ. Năng lực của đội ngũ công chức, viên chức còn chưa đồng đều, toàn diện, có mặt còn hạn chế. Một số công chức có tính chuyên nghiệp chưa cao, trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn hạn chế; thiếu những lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành cho việc thực hiện nhiều nhiệm vụ công tác pháp luật và tư pháp. Kỷ luật, kỷ cương trong thực thi nhiệm vụ còn có những hạn chế nhất định; vẫn còn một số công chức, viên chức chưa tự giác tu dưỡng, rèn luyện, thiếu gương mẫu, phẩm chất, năng lực chưa ngang tầm nhiệm vụ, cá biệt có trường hợp vi phạm nguyên tắc, quy chế làm việc, vi phạm pháp luật và bị xử lý theo quy định pháp luật.
3. Nhiệm vụ, giải pháp kiện toàn tổ chức cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp trong thời gian tới
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thượng tôn pháp luật, xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thi hành pháp luật là công việc rất quan trọng, trong đó, công tác thể chế được xác định là khâu đột phá để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhiều chủ trương, nghị quyết của Đảng đã được ban hành có liên quan đến công tác pháp luật và tư pháp là định hướng quan trọng cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Bộ, Ngành Tư pháp. Quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế cũng giúp cho đội ngũ nhân lực của Bộ, Ngành Tư pháp có nhiều cơ hội và điều kiện thuận lợi để giao lưu, trao đổi kinh nghiệm với các đối tác quốc tế trong các lĩnh vực công tác pháp luật và tư pháp. Tuy nhiên, bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp cũng đang đứng trước những khó khăn, thách thức và yêu cầu nhiệm vụ đòi hỏi cao trong công tác xây dựng, thi hành pháp luật và quản lý nhà nước trên các lĩnh vực công tác được giao. Thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, Nghị quyết số 77/NQ-CP và các Chương trình hành động của Ban Cán sự Đảng và Bộ Tư pháp về thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời gian tới cần phải bảo đảm thực hiện đầy đủ các chủ trương, định hướng của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh, liêm chính, chuyên nghiệp, trong đó tập trung vào một số nội dung sau:
Một là, rà soát, hoàn thiện các quy chế, quy định nội bộ về tổ chức và hoạt động của đơn vị.
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản, quy định liên quan đến tổ chức thực hiện nhiệm vụ, thực hiện công tác tổ chức cán bộ của các cơ quan, đơn vị, trong đó, giao trách nhiệm cho các cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan, đơn vị cụ thể hóa việc thực hiện. Theo đó, Bộ Tư pháp cũng sửa đổi, ban hành nhiều quy định, quy chế của Bộ, Ngành Tư pháp liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan, đơn vị trong Ngành Tư pháp, nhất là đối với các đơn vị thuộc Bộ và hệ thống THADS địa phương. Để bảo đảm việc triển khai kịp thời, đầy đủ và đúng quy định, các cơ quan, đơn vị trong Ngành Tư pháp cần chủ động quán triệt, tổ chức thực hiện, đồng thời rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định, quy chế nội bộ của đơn vị theo đúng yêu cầu của cấp có thẩm quyền.
Hai là, tiếp tục củng cố, kiện toàn chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của cơ quan, đơn vị.
Theo yêu cầu kiện toàn cơ cấu Chính phủ khóa XIII, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 98/2022/NĐ-CP ngày 29/11/2022 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 19/2023/QĐ-TTg ngày 02/8/2023 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 61/2014/QĐ-TTg ngày 30/10/2014 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp. Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 07/2020/TT-BTP ngày 21/12/2020 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện. Đến nay, hệ thống các văn bản quy định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp và THADS cũng đã được ban hành như: Các thông tư quy định về vị trí việc làm, biên chế, số lượng người làm việc; về định mức người làm việc; tiêu chí phân loại, điều kiện thành lập, sáp nhập, hợp nhất, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập thuộc ngành, lĩnh vực tư pháp; hướng dẫn về hội đồng quản lý và tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm, miễn nhiệm thành viên hội đồng quản lý trong đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Ngành Tư pháp… Để triển khai kiện toàn tổ chức các cơ quan tư pháp địa phương, Bộ Tư pháp đã ban hành Công văn số 1518/BTP-TCCB ngày 18/5/2021 hướng dẫn triển khai thực hiện Thông tư số 07/2020/TT-BTP gửi Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp đã có Công văn số 81-CV/BCSĐ ngày 22/7/2021 gửi Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề nghị quan tâm kiện toàn, nâng cao chất lượng công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã. Do đó, các cơ quan tư pháp, THADS tiếp tục quan tâm tham mưu với cấp ủy, Ủy ban nhân dân trong lãnh đạo, chỉ đạo việc củng cố, kiện toàn đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã; phối hợp với các tổ chức đảng, cấp ủy của Bộ, ngành, địa phương trong việc củng cố, kiện toàn, sắp xếp các cơ quan, tổ chức pháp chế và tư pháp địa phương theo các nghị quyết của Quốc hội, nghị định của Chính phủ, thông tư của Bộ Tư pháp; tiếp tục sắp xếp, đổi mới tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập theo các quy định mới được ban hành.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện vị trí việc làm công chức, viên chức tạo cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch và sử dụng hiệu quả biên chế được giao, thực hiện công tác cán bộ và chế độ, chính sách đối với công chức, viên chức.
Thực hiện Nghị định số 62/2020/NĐ-CP ngày 01/6/2020 của Chính phủ về vị trí việc làm và biên chế công chức và Nghị định số 106/2020/NĐ-CP ngày 10/9/2020 của Chính phủ về vị trí việc làm và số lượng người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 02/2023/TT-BTP ngày 29/6/2023 quy định vị trí việc làm công chức nghiệp vụ chuyên ngành tư pháp và Thông tư số 06/2023/TT-BTP ngày 18/9/2023 hướng dẫn về vị trí việc làm lãnh đạo, quản lý và chức danh nghề nghiệp chuyên ngành, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp trong đơn vị sự nghiệp công lập thuộc ngành, lĩnh vực tư pháp. Trên cơ sở hướng dẫn của Bộ Tư pháp và các cơ quan có liên quan, các cơ quan, đơn vị đã xây dựng và hoàn thiện trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt Đề án vị trí việc làm để tạo cơ sở cho việc đề xuất biên chế, số lượng người làm việc, thực hiện công tác cán bộ và chế độ, chính sách đối với công chức, viên chức.
Thực tế, số lượng cán bộ, công chức, viên chức của các cơ quan tư pháp và THADS địa phương hiện nay cơ bản đã được xác định theo biên chế được giao và tiếp tục phải thực hiện tinh gọn theo tỷ lệ yêu cầu của Trung ương (giai đoạn 2021 - 2026, tinh giản ít nhất 5% biên chế cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị và ít nhất 10% biên chế viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước). Việc cắt giảm biên chế này đang tạo áp lực lớn cho các cơ quan tư pháp và THADS địa phương trong bối cảnh khối lượng công việc ngày càng tăng. Do đó, các cơ quan, đơn vị tiếp tục quan tâm thực hiện chủ trương tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ công chức, viên chức theo vị trí việc làm nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức; sử dụng hiệu quả cán bộ, công chức, viên chức trên cơ sở năng lực, sở trường gắn với đào tạo, bồi dưỡng; có phương án tổ chức công việc phù hợp để có thể điều phối tập trung nguồn lực cho các nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách trong từng giai đoạn.
Bốn là, thực hiện việc tuyển dụng, tiếp nhận và đào tạo, bồi dưỡng, cơ cấu lại đội ngũ công chức, viên chức theo vị trí việc làm.
Trong thời gian qua, cùng với các quy định chung về quản lý cán bộ, Bộ Tư pháp đã ban hành các quy định về quản lý đội ngũ công chức, viên chức Ngành Tư pháp như quy định danh mục và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp tại chính quyền địa phương, quy định mã số, tiêu chuẩn và xếp lương đối với chức danh nghề nghiệp viên chức trợ giúp viên pháp lý, quy định chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức chuyên ngành THADS… Hiện nay, Bộ Tư pháp đang tiếp tục chỉ đạo các đơn vị quản lý khẩn trương triển khai xây dựng các thông tư quy định về mã số, chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ chức danh nghề nghiệp viên chức Ngành Tư pháp theo Nghị định số 85/2023/NĐ-CP ngày 07/12/2023 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 115/2020/NĐ-CP ngày 25/9/2020 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức; xây dựng Thông tư về đạo đức công vụ của công chức, viên chức Ngành Tư pháp; tiếp tục hoàn thiện các quy định về tiêu chuẩn lãnh đạo, quản lý các cơ quan, đơn vị của Bộ Tư pháp nhằm xác định rõ hệ tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp, kiến thức pháp luật, kinh tế, xã hội và kinh nghiệm thực tiễn đối với từng chức danh, nhân lực tư pháp; rà soát, đánh giá nhu cầu phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực tư pháp làm cơ sở định hướng cho việc thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cử nhân luật và các chức danh tư pháp thuộc thẩm quyền của Bộ Tư pháp. Trên cơ sở đó, cơ quan, đơn vị tư pháp và THADS cần phải:
- Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức bảo đảm số lượng, chất lượng, cơ cấu trên cơ sở vị trí việc làm và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Mục tiêu là xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có cơ cấu hợp lý, đáp ứng tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và khung năng lực theo quy định; cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp phải là người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, lối sống trong sạch; có số lượng và cơ cấu hợp lý; khả năng tư duy sáng tạo; có năng lực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, tính chuyên nghiệp cao; thượng tôn pháp luật, gương mẫu trong tuân thủ các chủ trương, quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
- Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ, thực hiện nghiêm túc yêu cầu xây dựng, rà soát bổ sung quy hoạch gắn với luân chuyển, điều động hàng năm để thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức đã được quy hoạch. Chú trọng việc tạo nguồn cán bộ, công chức, viên chức, phát hiện những nhân tố trẻ, điển hình, xác định quy hoạch nhằm phát hiện sớm nguồn cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất, năng lực, uy tín, triển vọng phát triển để đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bổ nhiệm, tạo nguồn lãnh đạo, quản lý các cấp, giới thiệu ứng cử, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ, đặc biệt hiện nay phải sẵn sàng chuẩn bị đội ngũ cán bộ cho nhiệm kỳ mới. Bảo đảm chất lượng cán bộ, công chức, viên chức quy hoạch, hạn chế tình trạng khi cần bổ sung cán bộ, công chức, viên chức nhưng trong quy hoạch lại không đáp ứng được tiêu chuẩn, điều kiện hoặc đáp ứng được tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm nhưng chưa đáp ứng ngay được yêu cầu công việc (nhất là đối với người đứng đầu có các chức danh tư pháp của các đơn vị sự nghiệp thuộc Sở, Lãnh đạo các cơ quan, đơn vị thi hành án…). Cùng với xây dựng đội ngũ lãnh đạo, quản lý, với đặc thù công tác của Bộ, Ngành Tư pháp, mỗi cơ quan, đơn vị trong Ngành cần quan tâm xây dựng đội ngũ công chức, viên chức chuyên môn sâu trong các lĩnh vực, hướng tới liên kết, trao đổi kinh nghiệm để có thể hình thành đội ngũ chuyên gia của Bộ, cơ quan, đơn vị, nhất là trong công tác xây dựng pháp luật, tham mưu, xử lý các vấn đề pháp lý mới, những vấn đề phát sinh từ thực tiễn và trong quá trình hội nhập quốc tế.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức. Với đặc thù công tác pháp luật và tư pháp, trong bối cảnh tình hình có sự thay đổi, biến động thường xuyên cần phải đề cao tính tự giác, tự học tập, tự nghiên cứu, cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ đối với cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp; đề cao việc đào tạo, bồi dưỡng tại chỗ gắn với truyền nghề, kinh nghiệm giữa các thế hệ cán bộ. Bố trí, tạo điều kiện cho đội ngũ công chức, viên chức chưa có đủ tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, quản lý nhà nước theo tiêu chuẩn chức danh, chức vụ, vị trí việc làm được tham gia đào tạo, bồi dưỡng để chuẩn hóa, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức được thực hiện theo quy hoạch và định hướng sử dụng; gắn kết quả đào tạo với tuyển chọn, bổ nhiệm, đề bạt nhằm nâng cao chất lượng toàn diện đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, trước hết là bản lĩnh chính trị, năng lực tư duy, tính chủ động, trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức.
Năm là, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong thực hiện nhiệm vụ.
Xác định rõ việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là của các cấp ủy, tổ chức đảng mà trước hết là người đứng đầu, các cơ quan, đơn vị trong Ngành Tư pháp cần phải chú trọng công tác rèn luyện, xây dựng bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên; quan tâm thực hiện có hiệu quả công tác phổ biến, quán triệt các chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao cho đội ngũ công chức, viên chức Ngành Tư pháp. Thực hiện chủ trương, định hướng của Đảng trong kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong thực hiện nhiệm vụ, Bộ Chính trị đã ban hành các quy định như: Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11/7/2023 về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ; Quy định số 131-QĐ/TW ngày 27/10/2023 về kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán; Quy định số 132-QĐ/TW ngày 27/10/2023 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; Quy định số 178-QĐ/TW ngày 27/6/2024 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật. Đây là các quy định trực tiếp liên quan đến hoạt động của Bộ, Ngành Tư pháp, do đó, các tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên cần phải quan tâm tổ chức học tập, quán triệt sâu rộng, nghiên cứu để hiểu đúng, đầy đủ về trách nhiệm của cơ quan, đơn vị và từng cá nhân theo quy định, từ đó thực hiện nghiêm các quy định này.
Cùng với đó, tiếp tục tăng cường đoàn kết, thống nhất cao, liêm chính, dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; hành động thiết thực, hiệu lực, hiệu quả...; bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, đề cao trách nhiệm nêu gương và tinh thần gương mẫu của người đứng đầu; phân cấp, phân quyền gắn với xác định rõ trách nhiệm tập thể, cá nhân gắn với đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện; cá thể hóa hơn nữa trách nhiệm cá nhân theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Quá trình kiểm tra, giám sát cần phải chú trọng tự kiểm tra và bảo đảm tính toàn diện, kịp thời cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức và kết quả hoạt động chuyên môn, sinh hoạt tư tưởng, quản lý và kiểm tra chế độ học tập, tự rèn luyện của cán bộ, công chức, viên chức; kết hợp chế độ kiểm tra thường xuyên, theo định kỳ với kiểm tra đột xuất, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao.
Sáu là, thực hiện hiệu quả các cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ, công chức, viên chức trong Ngành Tư pháp.
Thể chế hóa Kết luận số 14-KL/TW ngày 22/9/2021 của Bộ Chính trị về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung, ngày 29/9/2023, Chính phủ ban hành Nghị định số 73/2023/NĐ-CP quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Nghị định này có nhiều điểm mới thể hiện tính đồng bộ, liên thông với các quy định của Đảng; là cơ sở để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, có bản lĩnh chính trị, trí tuệ, gương mẫu, quyết tâm đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, sẵn sàng đương đầu với khó khăn, thử thách, luôn nỗ lực hành động vì lợi ích chung. Do đó, các cơ quan, đơn vị cần quan tâm, tổ chức thực hiện hiệu quả Nghị định này, cụ thể hóa phù hợp với điều kiện của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, coi đây là một trong những cơ chế góp phần động viên, khuyến khích sự đổi mới, sáng tạo gắn với bảo vệ cho đội ngũ công chức, viên chức Ngành Tư pháp trong bối cảnh công việc có nhiều nhiệm vụ, nhiều thách thức như hiện nay./.
TS. Trần Thu Hường
Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Tư pháp
[1]. Tổng Bí thư: Công tác nhân sự liên quan đến sự sống còn của Đảng, https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/tong-bi-thu-cong-tac-nhan-su-lien-quan-den-su-song-con-cua-dang-553479.html, truy cập ngày 01/8/2024.
[2]. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 5, tr. 309, tr. 280.
[3]. Nghị quyết số 08-NQ/HNTW ngày 23/01/1995 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính; Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng; Nghị quyết số 03-NQ/HNTW; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về “Một số vấn đề về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và tiền lương, trợ cấp xã hội thuộc ngân sách Nhà nước”; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng; Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 410), tháng 8/2024)