Tóm tắt: Bài viết phân tích tính tất yếu khách quan của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời, đề xuất một số giải pháp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Abstract: The article analyzes the objective necessity of building and completing the socialist rule of law State in Vietnam, and at the same time, proposes some solutions to build and complete the socialist rule of law State in Vietnam.
1. Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trong xã hội đương đại, khi nhu cầu dân chủ hóa đời sống xã hội, nhu cầu tôn trọng, đề cao, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân ngày càng tăng thì mục tiêu xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và bình đẳng, một xã hội “vì con người, cho con người, bảo vệ con người” trở nên phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Để xây dựng được xã hội đáp ứng các mục tiêu đó thì vai trò, trách nhiệm đầu tiên và nặng nề nhất thuộc về Nhà nước - tổ chức quyền lực chung và cũng là tổ chức có nhiều ưu thế nhất của xã hội. Cho đến nay, sự phát triển của văn minh nhân loại phần lớn được quy định bởi sự phát triển của xã hội công dân và Nhà nước pháp quyền[1].
Theo xu thế chung của thời đại và xuất phát từ đòi hỏi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là một nhu cầu tất yếu và “sự đòi hỏi cần phải xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không phải là ý muốn kỳ quặc của ai đó mà là mệnh lệnh khách quan của thời đại”[2]. Sau một quá trình nhận thức, đánh giá, Đảng đã khẳng định quyết tâm xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thành Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Đây là quyết định vô cùng cần thiết và có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu một bước phát triển mới của Nhà nước Việt Nam. Có thể coi Nhà nước pháp quyền là phương tiện để chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội, vươn tới tự do, tiến bộ và hạnh phúc. Ý thức được điều này nên trong các văn kiện của nhiều kỳ Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng, từ Đại hội VII đến Đại hội XIII đều coi nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, là điều kiện không thể thiếu để có nền dân chủ thực sự vì nhân dân. Đồng thời, nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn được cụ thể hóa trong văn kiện Đảng mỗi nhiệm kỳ trên cơ sở kết quả đã đạt được của nhiệm kỳ trước và bảo đảm sự phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước trong mỗi giai đoạn. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã ghi nhận: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”[3].
Trên cơ sở quan điểm của Đảng, mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được thể chế hóa, ghi nhận trong Hiến pháp, công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được xúc tiến và ngày càng được đẩy mạnh. Mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thiết kế ngày càng rõ ràng, cụ thể, được thể hiện trong Hiến pháp hiện hành với nội dung: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[4].
Mặc dù, Nhà nước Việt Nam hiện nay mới chỉ là Nhà nước của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nên những ưu việt của một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vẫn chưa thực sự được bộc lộ rõ nhưng có thể khẳng định, ở nước ta đã có đầy đủ các tiền đề cần thiết, những yếu tố nền móng định hình cho Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tồn tại và phát triển. Tính tất yếu khách quan của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bắt nguồn từ chính lịch sử xây dựng và phát triển đất nước. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thúc đẩy bởi: (i) Nhu cầu đòi hỏi nội tại của chính công cuộc đổi mới ở Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh[5]; (ii) Nhu cầu và xu thế toàn cầu hiện nay. Cụ thể là: Chống lại các hiện tượng thiếu dân chủ trong xã hội, đặc biệt là trong bộ máy nhà nước; tăng cường và phát huy dân chủ mọi mặt của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội...; bảo đảm và bảo vệ các quyền, lợi ích của con người, của công dân; thúc đẩy và bảo đảm quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; thực hiện công bằng xã hội; tạo điều kiện cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước[6].
2. Một số giải pháp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong tình hình mới
Thứ nhất, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức về việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện hệ thống lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thống nhất nhận thức về các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đó là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật; Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán; độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo các tiêu chí của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền, tổ chức thực hiện pháp luật thực sự có hiệu quả.
Mặc dù, thời gian qua, Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng để hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như tổ chức thực hiện pháp luật, song đối chiếu với những yêu cầu của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền thì vẫn còn một khoảng cách lớn. Vì thế, cần tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật. Mở rộng hơn nữa sự tham gia của nhân dân vào quá trình xây dựng pháp luật, bảo đảm hệ thống pháp luật thực sự dân chủ, thể hiện đúng đắn và đầy đủ ý chí của nhân dân. Hệ thống pháp luật chủ yếu được thể hiện trong các văn bản luật do Quốc hội ban hành, được xây dựng với kỹ thuật lập pháp cao, trong đó Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao nhất, hạn chế tình trạng luật ban hành nhưng phải có văn bản hướng dẫn mới thực hiện được. Pháp luật phải phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng như với thông lệ khu vực và thế giới.
Tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật trên tất cả các lĩnh vực, tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc, khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững của đất nước, nhất là hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội… Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, bảo đảm chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả. Phát huy tính năng động, sáng tạo, tích cực, vai trò, trách nhiệm của các chủ thể, đặc biệt là Chính phủ trong quy trình lập pháp. Hoàn thiện cơ chế phản biện xã hội, giải trình và tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Tăng cường xây dựng các đạo luật có nội dung cụ thể, hiệu lực trực tiếp, khắc phục tình trạng luật thiếu tính ổn định.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới một cách cơ bản, toàn diện, đồng bộ tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
Nhìn chung, kể từ khi công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được tiến hành, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước liên tục được đổi mới và đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Tuy nhiên, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước vẫn còn những hạn chế cần khắc phục. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII nêu rõ: “Tổ chức bộ máy nhà nước… còn một số bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Quyền lực nhà nước chưa được kiểm soát hiệu quả, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước chưa hiệu quả”[7]. Vì thế, trong thời gian tới, cần phải tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước để có thể thực hiện được mục tiêu đã đề ra là: “Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo”[8].
Để hiện thực hóa điều này, cần phải tiếp tục đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; bảo đảm Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, cơ quan chấp hành của Quốc hội. Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, hiện đại, khoa học, công khai, minh bạch, tạo môi trường thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức với ba trụ cột chính: Tổ chức bộ máy; công vụ, công chức; hành chính điện tử và chuyển đổi số. Xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư pháp; bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử; thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá, đồng thời, hoàn thiện thể chế để Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, nâng cao chất lượng, hiệu quả thi hành án, theo hướng rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí.
Thứ tư, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là một nguyên lý xã hội chủ nghĩa nói chung và của nước ta nói riêng. Củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là yếu tố quyết định đối với thắng lợi của công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI trở lại đây, Đảng đã không ngừng đổi mới sự lãnh đạo của mình đối với Nhà nước và xã hội cả trong nhận thức và thực tiễn hoạt động. Tuy nhiên, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước vẫn còn những hạn chế như: Việc thể chế hóa, cụ thể hóa một số nghị quyết, chủ trương của Đảng thành pháp luật của Nhà nước chưa đầy đủ, kịp thời. Việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước chưa nghiêm, hiệu quả thấp, chưa đạt yêu cầu đề ra. Thể chế hóa hoạt động cầm quyền của Đảng chưa phù hợp với yêu cầu khoa học, dân chủ, đúng pháp luật. Một số cấp ủy, tổ chức đảng trong cơ quan nhà nước đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý; thiếu kiểm tra, giám sát, để xảy ra nhiều vi phạm, khuyết điểm kéo dài phải xử lý kỷ luật của Đảng và cán bộ bị truy tố, xử phạt theo pháp luật[9]…
Để khắc phục những khuyết điểm và đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Theo đó, phải bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, thống nhất của Ðảng, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện nghị quyết. Tăng cường lãnh đạo trong xây dựng bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Ðảng thông qua việc ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy chế, quy định, quy trình cụ thể, công khai để cán bộ, đảng viên và nhân dân biết, giám sát việc thực hiện. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc cụ thể hóa, thể chế hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Ðảng; khắc phục triệt để tình trạng thực hiện không đầy đủ, không nghiêm, không hiệu quả. Tiếp tục thể chế hóa, hoàn thiện thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”[10]. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng đều vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân với quan điểm “lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước”[11]. Bảo đảm Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật[12].
TS. Đồng Thái Quang
Học viện Hậu cần
[1]. Trường Đại học Luật Hà Nội (2021), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 168.
[2]. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1991), Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân, Nxb. Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 5.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tập 1, tr. 174.
[4]. Điều 2 Hiến pháp năm 2013.
[5]. Điều 3 Hiến pháp năm 2013.
[6]. Nguyễn Minh Đoan (2017), Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr. 290.
[7]. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2022), Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr. 36.
[8]. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2022), Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr. 40.
[9]. http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/4083-thuc-trang-thuc-hien-phuong-thuc-lanh-dao-cua-dang-doi-voi-nha-nuoc.html, truy cập ngày 08/5/2023.
[10]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Tài liệu học tập các văn kiện Hội nghị lần thứ thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr. 39.
[11]. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2022), Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr. 39.
[12]. Khoản 2, 3 Điều 4 Hiến pháp năm 2013.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 382), tháng 6/2023)