1. Mối quan hệ giữa sự phát triển bền vững với xây dựng và hoàn thiện pháp luật
Giữa sự phát triển bền vững của xã hội với xây dựng và hoàn thiện pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, tồn tại phụ thuộc vào nhau; chúng vừa là điều kiện, tiền đề cho nhau, vừa là hệ quả của nhau, cùng song song tồn tại và phát triển trong sự phát triển chung của đất nước. Sự phát triển bền vững của xã hội là cơ sở thực tiễn vững chắc để Nhà nước tiếp tục xây dựng và thực hiện thành công các chiến lược, kế hoạch, chương trình xây dựng pháp luật phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế; là nguồn cung cấp các phương tiện vật chất - kỹ thuật cần thiết cho xây dựng và hoàn thiện pháp luật, bảo đảm cho xây dựng và hoàn thiện pháp luật ngày càng đạt chất lượng và hiệu quả cao; là một bảo đảm vật chất và tinh thần chắc chắn cho xã hội luôn luôn ổn định, phát triển hài hòa, tiến bộ, góp phần quan trọng vào việc củng cố, phát triển lòng tin của nhân dân vào chế độ chính trị - xã hội, khuyến khích họ tham gia ngày càng tích cực và đông đảo hơn vào xây dựng và hoàn thiện pháp luật của Nhà nước. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật để tạo ra một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, đạt được các tiêu chuẩn toàn diện, đồng bộ, khoa học, thực tiễn, có khả năng điều chỉnh có hiệu quả các mối quan hệ xã hội cơ bản theo hướng phát triển nhanh, liên tục, ổn định, vững chắc, đem lại ngày càng nhiều lợi ích vật chất, tinh thần cho xã hội và các thành viên xã hội. Nhờ có sự tác động của hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện mà sự phát triển bền vững của xã hội mới được bảo đảm thực hiện một cách liên tục, thống nhất trên phạm vi toàn xã hội và trong từng lĩnh vực quan hệ xã hội, tạo tiền đề vật chất, tinh thần để Việt Nam hội nhập thành công với thế giới. Cho đến nay, hầu hết các lĩnh vực xã hội quan trọng như kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ, an ninh - quốc phòng, đối ngoại đều được điều chỉnh bằng pháp luật. Nhờ có pháp luật điều chỉnh mà sự phát triển kinh tế đã bước đầu kết hợp được chặt chẽ, hợp lý, hài hòa với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường; sự phát triển xã hội cũng đã phần nào kết hợp được sự phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và bảo đảm tiến bộ xã hội, công bằng xã hội.
Từ sự phân tích trên cho thấy, chúng ta phải thường xuyên duy trì và phát huy sự phát triển bền vững của xã hội, nhất là trong bối cảnh suy thoái kinh tế hiện nay, vừa không ngừng đổi mới, cải tiến, nâng cao chất lượng và hiệu quả của xây dựng và hoàn thiện pháp luật trước những yêu cầu, đòi hỏi mới.
2. Một số bất cập trong nội dung của pháp luật và trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật trước yêu cầu phát triển bền vững
Nhìn chung, nội dung của pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học - công nghệ, môi trường, an ninh - quốc phòng, đối ngoại còn chưa chứa đựng đầy đủ các yếu tố phát triển bền vững. Chẳng hạn, pháp luật về kinh tế hiện nay mới chủ yếu quy định những vấn đề ổn định và phát triển nền kinh tế trong thời gian trước mắt chứ chưa định hướng phát triển kinh tế - xã hội lâu dài, nhằm đáp ứng nhu cầu của tương lai; còn thiên về tăng trưởng kinh tế mà chưa quy định đầy đủ các vấn đề về bảo đảm tiến bộ xã hội, công bằng xã hội, về khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, về kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với bản đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội và quốc phòng. Pháp luật về xã hội hiện nay vừa chưa quan tâm đúng mức tới việc giải quyết các vấn đề làm ổn định xã hội, vừa chưa thực sự chú trọng tới các yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện, nâng cao chất lượng và bảo vệ môi trường. Pháp luật về môi trường cũng chưa kết hợp được một cách chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên, nâng cao chất lượng và bảo vệ môi trường với việc phát triển kinh tế, xã hội; vừa chưa có các quy định về giải quyết các sự cố môi trường, phục hồi suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường, vừa thiếu những quy định để định hướng phát triển lâu dài nhằm đáp ứng nhu cầu tương lai của xã hội.
Nội dung của pháp luật về các lĩnh vực quản lý nhà nước nói chung, pháp luật về kinh tế, xã hội, môi trường nói riêng còn chưa đảm bảo được yêu cầu phát triển bền vững, chủ yếu là do một số hạn chế trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật, thể hiện cụ thể ở những điểm sau:
Thứ nhất, các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền xây dựng và hoàn thiện pháp luật chưa có sự nhận thức đầy đủ, thống nhất, đúng đắn về ý nghĩa, tầm quan trọng của sự phát triển bền vững đối với đất nước trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế; về vị trí, vai trò của pháp luật đối với sự phát triển bền vững của đất nước, cũng như cần thiết phải lồng ghép nội dung phát triển bền vững vào quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
Thứ hai, công tác tổ chức cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xây dựng pháp luật lồng ghép nội dung phát triển bền vững vào quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật (mà về thực chất là quy trình luật định về xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật) về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ, môi trường, an ninh - quốc phòng, đối ngoại chưa được thường xuyên và chưa thật sự khoa học, chặt chẽ.
Thứ ba, trình độ kỹ thuật lồng ghép nội dung phát triển bền vững vào quy trình luật định về văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật còn hạn chế và chậm được đổi mới, cải tiến. Việc tham khảo, học hỏi, tiếp thu những kinh nghiệm của nước ngoài về bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật chưa được quan tâm thường xuyên.
Thứ tư, trình độ, năng lực chuyên môn luật, nhất là trình độ kỹ thuật, xây dựng và hoàn thiện pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền sáng kiến pháp luật và có thẩm quyền xây dựng và hoàn thiện pháp luật, xét từ góc độ bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật còn có những hạn chế nhất định.
Thứ năm, cơ sở pháp luật về đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật chưa được hoàn thiện. Cho đến nay, pháp luật chưa quy định rõ ràng, đầy đủ, cụ thể nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong việc đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững trong xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật; về trình tự của việc lồng ghép nội dung phát triển bền vững vào quy trình xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật ở trung ương (nhất là đối với các văn bản luật của Quốc hội và nghị định của Chính phủ) và địa phương. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững trong xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của từng lĩnh vực quản lý nhà nước chưa được thường xuyên.
Thứ sáu, công tác tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm đối với việc lồng ghép nội dung phát triển bền vững vào quy trình xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về các lĩnh vực quản lý nhà nước chưa được kịp thời và thường xuyên, liên tục.
3. Giải pháp góp phần bảo đảm nội dung phát triển bền vững trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật
Một là, cán bộ và nhân dân, đặc biệt là cán bộ trong các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xây dựng và hoàn thiện pháp luật cần quán triệt sâu sắc quan niệm chung của thế giới về phát triển bền vững và về vị trí, vai trò của pháp luật đối với phát triển bền vững ở Việt Nam, từ đó thấy được sự cần thiết phải lồng ghép nội dung phát triển bền vững vào quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, vừa vận dụng trực tiếp một cách sáng tạo, linh hoạt đường lối, chính sách của Đảng về phát triển bền vững, vừa phải sử dụng pháp luật để điều tiết các mối quan hệ xã hội.
Hai là, cần phân tích, đánh giá một cách sâu sắc, toàn diện, khách quan hiện trạng mức độ phát triển bền vững trong tất cả các lĩnh vực quan hệ xã hội cần tới sự điều chỉnh của pháp luật, nhằm xác lập căn cứ để tiếp tục xác định mới các yếu tố phát triển bền vững cần đưa vào nội dung pháp luật trong thời gian tới. Việc phân tích, đánh giá này cần được thực hiện dựa trên những yêu cầu, đòi hỏi về phát triển bền vững của đất nước nói chung, của từng lĩnh vực quan hệ xã hội nói riêng.
Ba là, phải xác định cụ thể các yếu tố phát triển bền vững của lĩnh vực quan hệ xã hội cần đến sự điều chỉnh của pháp luật sẽ được chứa đựng trong nội dung của pháp luật phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh - quốc phòng, mở rộng quan hệ và hợp tác quốc tế trong bối cảnh hiện nay. Chẳng hạn, các yếu tố phát triển bền vững quan trọng cần đưa vào nội dung pháp luật về xã hội như xóa đói, giảm nghèo, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động; tạo lập cơ hội bình đẳng để mọi người đều được tham gia vào các hoạt động xã hội, văn hóa, chính trị, phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường; hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số, giảm bớt sức ép của sự gia tăng dân số đối với các lĩnh vực tạo việc làm, y tế, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, giáo dục và đào tạo nghề nghiệp, bảo vệ môi trường sinh thái; định hướng quá trình đô thị hóa và di dân nhằm phát triển bền vững các đô thị; phân bố hợp lý dân cư và lực lượng lao động theo vùng, bảo đảm sự phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường bền vững ở các địa phương; nâng cao chất lượng giáo dục để nâng cao dân trí, trình độ nghề nghiệp thích hợp với yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước; phát triển số lượng và nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế và chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân; cải thiện các điều kiện lao động và vệ sinh môi trường sống.
Bốn là, lồng ghép các yếu tố phát triển bền vững cần chứa đựng trong nội dung của pháp luật về từng lĩnh vực quan hệ xã hội cụ thể vào các giai đoạn của quy trình luật định về xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ trung ương xuống địa phương.
Năm là, thường xuyên đổi mới, cải tiến phương pháp lồng ghép các yếu tố phát triển bền vững cần chứa đựng trong nội dung của pháp luật vào quy trình xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, nhất là sử dụng các phương pháp tiên tiến của công nghệ thông tin hiện đại.
Sáu là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ pháp luật nói chung, đặc biệt là cán bộ công tác trong các cơ quan pháp chế của các bộ, ban, ngành ở trung ương và các địa phương, thường xuyên bồi dưỡng kiến thức pháp luật cũng như kỹ năng, kỹ thuật xây dựng pháp luật. Tăng cường hơn nữa việc nghiên cứu, tìm hiểu, học tập, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm của nước ngoài về đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
Bảy là, thường xuyên tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm xây dựng và hoàn thiện pháp luật trước yêu cầu đảm bảo phát triển bền vững. Kết quả tổng kết, đánh giá và những bài học kinh nghiệm đó cần được công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Tám là, tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp luật về đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
Trong những năm qua, chúng ta đã đạt được kết quả đáng kể trong nhiều lĩnh vực liên quan tới phát triển bền vững, song vẫn còn nhiều việc phải làm. Trong số đó, xây dựng và hoàn thiện một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh để tạo lập khung pháp lý toàn diện cho chiến lược phát triển của quốc gia được coi là yêu cầu tiên quyết đòi hỏi sự góp sức của các ngành, các cấp, đặc biệt là đối với các cơ quan lập pháp. Yêu cầu này đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực xây dựng hệ thống pháp luật về phát triển bền vững. Công tác xây dựng pháp luật vừa phải đảm bảo tính toàn diện, đồng bộ, vừa phải tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc về kinh tế, xã hội và môi trường. Trong quá trình này, một mặt chúng ta vừa tổng kết việc thực thi pháp luật để có những sửa đổi, bổ sung thống nhất, mặt khác nghiên cứu sớm ban hành văn bản pháp luật mới trên một số lĩnh vực đang được hình thành và phát triển trong giai đoạn hiện nay.
Đồng thời, cần tiếp tục nâng cao chất lượng biên soạn các dự án luật, pháp lệnh, bảo đảm tính khoa học, tính thống nhất của các văn bản. Trong việc nghiên cứu chuẩn bị các dự án phải tổng kết thực tiễn một cách đầy đủ, kết hợp với việc nghiên cứu vận dụng kinh nghiệm nước ngoài, có chọn lọc, phù hợp với thực tiễn và hệ thống pháp luật Việt Nam; đồng thời loại dần các quy định chung, thiếu cụ thể, xây dựng các quy định dễ hiểu, dễ thực hiện, tiến tới xây dựng các đạo luật với các quy định chi tiết, đầy đủ góp phần giảm bớt việc ban hành các văn bản hướng dẫn kèm theo. Mặt khác, cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu dư luận xã hội về việc ban hành và thực hiện luật, pháp lệnh; gắn công tác xây dựng luật, pháp lệnh với việc giám sát thi hành.
Giải quyết tốt yêu cầu trên, không chỉ góp phần thực hiện mục tiêu phát triển đất nước nhanh, hiệu quả cao và bền vững, mà còn góp phần đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, hạn chế tác động tiêu cực, tạo điều kiện thuận lợi đưa đất nước ta theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới.
Đoàn Thị Ngọc Hải
Sở Tư pháp tỉnh Ninh Bình
Tài liệu tham khảo:
1. PGS.TS. Nguyễn Văn Động, Xây dựng và hoàn thiện pháp luật trước yêu cầu phát triển bền vững ở nước ta hiện nay, Nxb. Tư pháp, Hà Nội - 2010;
2. Một số tham luận tại Hội thảo Quốc gia đánh giá 10 năm phát triển bền vững ở Việt Nam - 2002;
3. Định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế, tài chính và ngân sách, Kỷ yếu hội thảo, Ủy ban Kinh tế và ngân sách của Quốc hội khoá X, tháng 4/2002.