Abstract: This paper analyses peculiarity of unfair competition actin the area of industrial property, the real situation of stipulations on competence of handling unfair competition act in the area of industrial property in Vietnam and raises some recommendations.
1. Những đặc thù của hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh (CTKLM) trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp (SHCN) là nhóm hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, xâm phạm các đối tượng SHCN và các đối tượng có liên quan đến quyền SHCN gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, người được sử dụng hợp pháp các đối tượng SHCN và/hoặc của người tiêu dùng.
Hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN được cấu thành bởi các yếu tố: (i) Chủ thể là các chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh trên thị trường, bao gồm các tổ chức, cá nhân Việt Nam và cả tổ chức, cá nhân nước ngoài đáp ứng các điều kiện quy định tại Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; (ii) Khách thể là các chuẩn mực thông thường của đạo đức kinh doanh; (iii) Bản chất của hành vi CTKLM là hành vi trái với chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, xâm phạm các đối tượng SHCN và các đối tượng có liên quan đến quyền SHCN; gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, người được sử dụng hợp pháp các đối tượng SHCN hoặc của người tiêu dùng; (iv) Mục đích của hành vi là nhằm cạnh tranh, thu lợi cho doanh nghiệp.
Hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN mang một số điểm đặc thù so với hành vi CTKLM nói chung, đó là:
Thứ nhất, đối tượng mà hành vi cạnh tranh không lành mạnh xâm phạm đến là các đối tượng sở hữu công nghiệp và các đối tượng có liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp
Đối tượng của quyền SHCN chiếm số lượng lớn trong các đối tượng của hành vi CTKLM, bởi đây là đối tượng dễ dàng bị lợi dụng nhất do tính không chiếm hữu của doanh nghiệp khi làm chủ sở hữu đối với những tài sản này. Hơn nữa, đối tượng của quyền SHCN ngày càng có vai trò quan trọng đối với uy tín, hình ảnh của doanh nghiệp nên việc lợi dụng nhằm CTKLM dễ dàng mang lại lợi ích cho doanh nghiệp đối thủ mà không cần phải đầu tư nhiều thời gian, công sức, tiền bạc.
Hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN thường phải liên quan đến việc sử dụng hoặc chuyển giao quyền SHCN. Cụ thể, trong quá trình sản xuất, kinh doanh, một số chủ thể đã có hành vi sử dụng những đối tượng SHCN trùng hoặc tương tự với đối tượng SHCN đang được các doanh nghiệp khác sử dụng một cách hợp pháp. Có thể nói, hành vi CTKLM xuất hiện ở những đối tượng SHCN gắn với hoạt động thương mại, các đối tượng SHCN được hướng tới có thể là nhãn hiệu, tên thương mại, kiểu dáng công nghiệp, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh…
Các đối tượng mà doanh nghiệp vi phạm sử dụng không thể được coi là đối tượng SHCN của doanh nghiệp vi phạm, vì không đáp ứng yêu cầu sử dụng lâu dài và hợp pháp. Các dấu hiệu này thường được các chủ thể hành vi CTKLM tạo ra sau khi đối tượng SHCN đã tồn tại hợp pháp trên thị trường với hình thức, đặc điểm tượng tự để lợi dụng ưu thế cạnh tranh của đối tượng SHCN đó[1].
Có quan điểm cho rằng, chỉ bị coi là hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN nếu các đối tượng xâm phạm là các đối tượng của quyền SHCN đã được bảo hộ, trong thời hạn bảo hộ và hành vi CTKLM xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam[2].
Tuy nhiên, theo tác giả, hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN có đối tượng xâm phạm bao gồm cả đối tượng của quyền SHCN và các đối tượng liên quan đến quyền SHCN. Trong đó, các đối tượng của quyền SHCN được bảo hộ theo cơ chế cạnh tranh không lành mạnh là những đối tượng của quyền SHCN gắn liền với hoạt động thương mại. Những đối tượng này có thể đang được bảo hộ theo cơ chế quyền SHCN hoặc không được bảo hộ quyền SHCN (do chưa đăng ký bảo hộ hoặc đã hết thời hạn bảo hộ). Bên cạnh các đối tượng SHCN, các chỉ dẫn thương mại khác cũng là đối tượng được bảo hộ chống lại các hành vi CTKLM. Tuy nhiên, điều kiện là những đối tượng này đã sử dụng lâu dài, ổn định trong hoạt động kinh doanh, được người tiêu dùng biết đến rộng rãi.
Thứ hai, người thực hiện hành vi bị coi là cạnh tranh không lành mạnh khi chiếm đoạt thành quả sáng tạo, thành quả đầu tư (tồn tại dưới dạng các đối tượng sở hữu công nghiệp, chỉ dẫn thương mại) của chủ thể khác
Để có một sản phẩm trí tuệ mang tính sáng tạo, chủ sở hữu hoặc người sử dụng hợp pháp phải đầu tư thời gian, trí tuệ hoặc kinh phí. Hoạt động nghiên cứu sáng tạo có thể phải trải qua rất nhiều thất bại mới tạo ra được một sản phẩm có giá trị được người tiêu dùng tín nhiệm.
Ngay kể cả các chỉ dẫn thương mại, dù hàm lượng giá trị sáng tạo không cao như sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp, kiểu dáng công nghiệp, bí mật kinh doanh nhưng bên cạnh chi phí thiết kế, tạo ra sản phẩm, chủ sở hữu hoặc người sử dụng hợp pháp phải mất chi phí vào công tác truyền thông, xây dựng hình ảnh, uy tín đối với người tiêu dùng. Do đó, việc các đối thủ kinh doanh lợi dụng các đối tượng của quyền SHCN và các đối tượng có liên quan đến quyền SHCN để thu lợi bất chính là hành vi chiếm đoạt thành quả đầu tư của chủ sở hữu hoặc người có quyền sử dụng hợp pháp các đối tượng đó.
Thứ ba, phần lớn những hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp được thực hiện với mục đích gây nhầm lẫn hoặc lừa dối người tiêu dùng
Mục tiêu của các doanh nghiệp hướng tới trong hoạt động sản xuất kinh doanh là thu hút người tiêu dùng, đạt được lợi nhuận tối đa. Bởi vậy, các hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN được thực hiện chủ yếu nhằm mục đích lôi kéo khách hàng, chiếm lĩnh thị phần lớn trên thị trường. Để đạt được mục đích đó, các chủ thể kinh doanh thực hiện hành vi CTKLM đã sử dụng các thủ đoạn khác nhau để lừa dối khách hàng, khiến người tiêu dùng mua và sử dụng những sản phẩm mà mình không thực sự biết rõ về nguồn gốc, xuất xứ, đặc tính và có thể có chất lượng thua kém. Chính vì vậy, pháp luật cạnh tranh hiện nay ghi nhận về một loại hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN với thuật ngữ “hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn”[3]. Những nhầm lẫn có thể thể hiện dưới các góc độ khác nhau: (i) Nhầm lẫn rằng hai sản phẩm giống nhau do cùng từ một nhà cung cấp; (ii) Nhầm lẫn rằng hai sản phẩm giống nhau thể hiện hai nhà cung cấp có quan hệ, liên kết với nhau; (iii) Nhầm lẫn rằng hai sản phẩm giống nhau sẽ có công dụng, tính năng, chất lượng như nhau.
Trong lĩnh vực SHCN, hành vi CTKLM chủ yếu bao gồm hành vi cố tình tạo ra sự nhầm lẫn về cơ sở sản xuất, sản phẩm hoặc hoạt động kinh doanh của một đối thủ cạnh tranh; viện dẫn hoặc chỉ dẫn tạo nên sự nhầm lẫn trong suy nghĩ của công chúng về bản chất, phương thức sản xuất, đặc tính, khả năng ứng dụng hoặc số lượng hàng hóa... Mục đích của việc kiện về hành vi CTKLM cũng là buộc chấm dứt hành vi vi phạm và đòi bồi thường thiệt hại[4].
Chủ thể thực hiện các hành vi này chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh.
Thứ tư, hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu hoặc người được sử dụng hợp pháp các đối tượng sở hữu công nghiệp hoặc của người tiêu dùng
Hành vi CTKLM trong thương mại gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của chủ thể kinh doanh khác hoặc của người tiêu dùng. Người chịu thiệt hại do hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN chủ yếu là người sở hữu hoặc người được sử dụng hợp pháp các đối tượng SHCN mà không phải mọi chủ thể kinh doanh nói chung.
Chủ sở hữu hoặc người được sử dụng hợp pháp các đối tượng SHCN đã phải đầu tư thời gian, công sức, tiền bạc để có được các đối tượng sở hữu công nghiệp là các sáng chế, kiểu dáng công nghiệp thu hút khách hàng bởi tính năng, công dụng, kiểu dáng sản phẩm hoặc các đối tượng SHCN là các chỉ dẫn thương mại như nhãn hiệu hàng hóa, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại... tạo được niềm tin, uy tín trong khách hàng. Hành vi lợi dụng các đối tượng SHCN để CTKLM một mặt gây thiệt hại cho khách hàng khi không lựa chọn đúng sản phẩm như mong muốn, mặt khác gây thiệt hại cho chủ sở hữu hoặc người được sử dụng hợp pháp các đối tượng SHCN khi doanh nghiệp bị sụt giảm doanh thu do khách hàng bị nhầm lẫn mà mua hoặc sử dụng sản phẩm, dịch vụ tương tự khác; do những khẳng định sai lệch của chủ thể hành vi CTKLM làm mất uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng....
Căn cứ vào Công ước Paris, Hiệp định TRIPS, pháp luật của các quốc gia, trong đó có Việt Nam khá tương đồng trong việc xác định các loại hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN gồm: Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn; xâm phạm bí mật kinh doanh; sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên, nếu người sử dụng là người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc sử dụng đó không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính đáng; hành vi đăng ký, chiếm giữ, sử dụng tên miền trái pháp luật.
2. Thực trạng quy định về thẩm quyền xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam
2.1. Tòa án
Tổ chức, cá nhân bị thiệt hại hoặc có khả năng bị thiệt hại[5] do hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN gây ra có quyền yêu cầu Tòa án[6] áp dụng biện pháp dân sự. Các hình thức chế tài trong biện pháp dân sự được quy định tại Điều 202 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Việc áp dụng biện pháp dân sự đối với hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN phải tuân theo thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định và những yêu cầu nhất định như[7]: Chủ thể yêu cầu áp dụng có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ; nguyên tắc xác định thiệt hại; căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại… Áp dụng biện pháp dân sự là cách để cơ quan có thẩm quyền xác định mức thiệt hại và thực hiện các biện pháp cần thiết để buộc bên vi phạm phải đền bù đầy đủ cho chủ thể bị thiệt hại.
Pháp luật tố tụng Việt Nam hiện đã có quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp về sở hữu trí tuệ (SHTT) nói chung và xử lý các vụ CTKLM liên quan tới các đối tượng của quyền SHCN nói riêng.
Thực tiễn, ở các nước trên thế giới thì Toà án đóng một vai trò rất quan trọng trong việc xử lý các vi phạm về SHTT nói chung và CTKLM liên quan đến SHCN nói riêng, nhưng ở Việt Nam thì vai trò của Tòa án còn hạn chế so với các cơ quan hành chính trong việc xử lý các vi phạm nêu trên.
Có nhiều nguyên nhân của tình trạng trên, nhưng tựu trung lại, có thể thấy các nguyên nhân khiến cho các vụ án liên quan đến quyền SHCN nói chung, CTKLM trong lĩnh vực SHCN nói riêng ít được xử lý bởi cơ quan Tòa án là:
- Thủ tục xử lý vi phạm quyền SHCN nói chung thông qua Tòa án hiện nay tốn rất nhiều thời gian và công sức của bên khởi kiện. Thời gian giải quyết một vụ việc tại Tòa án tính từ khi thụ lý đến khi có bản án, quyết định sơ thẩm và thời gian giải quyết của Tòa án cấp phúc thẩm đối với vụ án có kháng cáo, kháng nghị trung bình tại một cấp xét xử là từ 06 tháng đến 01 năm, có vụ phải xét xử nhiều lần nên thời gian giải quyết có thể kéo dài hơn 01 năm.
- Mức đền bù bồi thường thiệt hại do Tòa án đưa ra đôi khi thấp hơn nhiều so với thiệt hại thực tế, căn cứ xác định bồi thường thiệt hại không rõ ràng.
- Số lượng thẩm phán hiểu biết chuyên sâu về SHTT nói chung còn rất hạn chế. Các vụ việc liên quan đến CTKLM trong lĩnh vực SHCN thường mang tính chuyên môn rất cao, đòi hỏi những người xét xử phải thực sự có trình độ trong lĩnh vực này. Hiện nay, để đưa ra phán quyết, Tòa án còn phụ thuộc quá nhiều vào ý kiến của cơ quan chuyên môn.
- Hiện nay, tại Việt Nam vẫn chưa có Tòa án SHTT chuyên trách với các thủ tục xử lý tương ứng. Do đó, việc xử lý các hành vi xâm phạm quyền SHTT nói chung, hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN nói riêng còn chưa hiệu quả.
- Khi hành vi xâm phạm quyền SHTT gây thiệt hại nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội đủ để cấu thành tội phạm thì chủ thể thực hiện hành vi đó phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Khoản 1 Điều 199 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định: “Tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân khác thì tùy theo tính chất, mức độ xâm phạm, có thể bị xử lý bằng biện pháp dân sự, hành chính hoặc hình sự”. Tuy nhiên, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 không quy định chủ thể quyền trong các vụ việc về CTKLM có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp hình sự để xử lý hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN[8]. Mặt khác, hiện nay, trong pháp luật cạnh tranh cũng như pháp luật hình sự của Việt Nam không có bất cứ quy định cụ thể nào về việc áp dụng những chế tài hình sự cho tội phạm thực hiện hành vi CTKLM nói chung và hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN nói riêng. Do đó, tính đến hiện tại chưa áp dụng biện pháp hình sự đối với hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN.
2.2. Cơ quan hành chính nhà nước
Trong số các biện pháp xử lý đối với hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN thì biện pháp hành chính thường xuyên được các chủ thể lựa chọn áp dụng. Một phần bởi các hình thức xử lý được quy định tương đối phong phú. Mặt khác, chúng lại được tiến hành khá nhanh gọn, đáp ứng kịp thời yêu cầu về thời gian để chủ thể quyền có thể khai thác hiệu quả các đối tượng SHCN của mình cũng như bảo đảm tính ổn định của hoạt động kinh doanh.
Điều 15 Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày 29/8/2013 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực SHCN quy định thẩm quyền xử phạt đối với hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN của nhiều cơ quan hành chính nhà nước. Theo đó, Thanh tra Khoa học và Công nghệ là cơ quan chủ đạo có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính đối với tất cả các hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN, các cơ quan hành chính khác trong phạm vi nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước của mình xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN tương ứng, như cơ quan quản lý thị trường có quyền xử lý đối với hành vi xảy ra trong hoạt động buôn bán, vận chuyển trên thị trường trong nước; cơ quan hải quan có quyền xử lý đối với hành vi xảy ra trong hoạt động quá cảnh, nhập khẩu hàng hóa; Ủy ban nhân dân có thẩm quyền xử lý đối với hành vi xảy ra trên địa bàn do Ủy ban nhân dân quản lý. Riêng Thanh tra Thông tin và Truyền thông có thẩm quyền xử lý đối với hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN đặc thù là hành vi đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại của người khác được bảo hộ nhằm chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng.
Các chủ thể có thẩm quyền trên khi xử lý hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN tuân theo thủ tục xử phạt vi phạm hành chính quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Bên cạnh đó, điểm c, điểm d khoản 2 Điều 49 Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định cơ quan quản lý cạnh tranh có thẩm quyền điều tra, xử lý, xử phạt hành vi CTKLM nói chung, CTKLM trong lĩnh vực SHCN nói riêng.
Theo đánh giá chủ quan của Cục Quản lý cạnh tranh (nay là Cục Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng), số lượng vụ việc CTKLM được Cục xử lý chưa nhiều là do một số nguyên nhân như: “Không thuộc chức năng, thẩm quyền của Cục Quản lý cạnh tranh; bên khiếu nại không bổ sung hồ sơ theo yêu cầu; các bên đã chủ động thỏa thuận và không tiếp tục cung cấp thông tin, tài liệu”[9].
Theo tác giả, ngoài những nguyên nhân trên, số lượng các vụ việc CTKLM trong lĩnh vực SHCN do Cục Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng xử lý chưa nhiều còn do các nguyên nhân khác như:
Thứ nhất, thủ tục ra quyết định xử lý hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN do Cục Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng thực hiện mất thời gian và phức tạp hơn so với các cơ quan hành chính nhà nước khác có thẩm quyền xử lý đối với hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN. Cùng hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN, theo Điều 136 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 của Chính phủ, cơ quan quản lý cạnh tranh chỉ được ra quyết định xử lý hành vi CTKLM sau khi đã tiến hành điều tra và phải dựa trên nội dung điều tra chính thức, tức là vừa phải tuân theo thủ tục tố tụng cạnh tranh vừa tuân theo thủ tục xử lý vi phạm hành chính theo Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, trong khi các cơ quan có thẩm quyền khác chỉ cần tuân theo thủ tục xử lý vi phạm hành chính trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Thứ hai, cán bộ công tác tại Cục Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng là những chuyên gia về xử lý các vụ CTKLM nói chung hơn là chuyên gia trong lĩnh vực SHCN như Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ. Trong khi các vụ việc CTKLM thuộc lĩnh vực SHCN, để điều tra, giải quyết, cần có chuyên gia về SHCN. Do đó, khi có vụ việc CTKLM trong lĩnh vực SHCN, để giải quyết được, Cục Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng có thể phải chuyển vụ việc sang Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ, có thể phải trưng cầu giám định SHCN.
Trường hợp các bên không nhất trí với quyết định xử phạt vi phạm hành chính có thể khiếu nại ra Tòa án, khi đó, việc xử lý tuân thủ quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2010.
3. Một số giải pháp trong việc quy định thẩm quyền xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp
- Chuyển thẩm quyền xử lý hành chính hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp của Cục Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng sang cơ quan chuyên môn về sở hữu công nghiệp (là Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ)
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, việc xử lý hành chính hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN được trao thẩm quyền cho nhiều cơ quan như: Cơ quan quản lý cạnh tranh, cơ quan chuyên môn về SHCN…
Theo quan điểm của chúng tôi, thẩm quyền xử lý hành chính hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN không nên giao cho cơ quan quản lý cạnh tranh mà tập trung vào cơ quan chuyên môn về SHCN (Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ)[10]. Vì việc quy định nhiều cơ quan cùng có thẩm quyền trong việc xử lý hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN dẫn tới sự chồng chéo về thẩm quyền và đùn đẩy trách nhiệm trong việc giải quyết. Hơn nữa, xử lý hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN đòi hỏi các chủ thể phải có năng lực chuyên môn tốt về SHTT nói chung, SHCN nói riêng. Do đó, việc quy định cơ quan quản lý cạnh tranh có thẩm quyền giải quyết đối với hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN cũng cho thấy cơ quan này sẽ giải quyết không hiệu quả bằng cơ quan quản lý chuyên ngành đối với những hành vi CTKLM trong những lĩnh vực chuyên môn sâu như SHCN.
Việc giao thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN cho cơ quan quản lý cạnh tranh chỉ còn ý nghĩa về mặt hình thức, không đảm bảo hiệu quả. Trên thực tế, cùng một hành vi vi phạm, nếu giải quyết bởi cơ quan quản lý cạnh tranh phải trải qua thủ tục tố tụng cạnh tranh với các bước điều tra, xem xét, quyết định; trong khi cơ quan thanh tra khoa học công nghệ rút ngắn được rất nhiều thời gian với thủ tục xử lý vi phạm hành chính. Thực tế, từ năm 2009 đến năm 2016, Cục Quản lý cạnh tranh mới xử lý 03 vụ việc CTKLM trong lĩnh vực SHCN.
- Về lâu dài, chỉ giao thẩm quyền xử lý hành vi CTKLM nói chung, CTKLM trong lĩnh vực SHCN nói riêng cho Tòa án
Trong thời gian trước mắt, việc cơ quan hành chính xử lý vi phạm hành chính các vụ việc CTKLM trong lĩnh vực SHCN là vẫn rất cần thiết. Điều này do nhiều nguyên nhân như: Trình độ dân trí còn hạn chế, bên bị vi phạm chưa đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ chứng minh vụ việc tại Tòa; trình độ chuyên môn nghiệp vụ của thẩm phán còn yếu kém hoặc hiệu lực thực thi phán quyết của Tòa án kém nhanh nhạy, hiệu quả so với các cơ quan hành chính nhà nước.
Tuy nhiên, về lâu dài, việc quy định thẩm quyền xử lý hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN cần xác định dựa trên bản chất của hành vi. Đây là hành vi xâm phạm lợi ích giữa các chủ thể, không phải là hành vi trực tiếp xâm phạm trật tự quản lý hành chính nhà nước. Do đó, để đảm bảo công bằng lợi ích của các bên, tranh chấp cần được giải quyết tại Tòa án theo thủ tục tố tụng hơn là giải quyết bởi cơ quan hành chính nhà nước. Việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN nên được giao cho Tòa án, đặc biệt là Tòa chuyên trách về SHTT. Mặt khác, nếu kéo dài việc giao cơ quan hành chính thẩm quyền xử lý hành vi CTKLM thì gia tăng gánh nặng cho Nhà nước trong việc duy trì đội ngũ thanh tra xử lý, trong khi đó với cơ quan tố tụng, các bên tham gia tố tụng phải chi trả án phí để giải quyết quyền lợi của mình.
Đại học Thành Tây
[1]. Đặng Thị Hồng Tuyền, Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2013.
[2]. Đinh Thị Mai Phương, Về bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo pháp luật Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 84-85.
[3]. Điều 39, Điều 40 Luật Cạnh tranh năm 2004.
[4]. Http://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/thong-tin-khac.aspx?ItemID=939.
[5]. Khoản 3 Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và khoản 3 Điều 117 Luật Cạnh tranh năm 2004.
[6]. Điều 202 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005; các điều 30, 37, 38 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
7. Khoản 3 Điều 203, Điều 204, Điều 205 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005.
[8]. Đặng Thị Hồng Tuyền, Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2013.
[9]. Cục Quản lý cạnh tranh (nay là Cục Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng), Báo cáo thường niên năm 2016, truy cập ngày 27/11/2017, http://www.vca.gov.vn.
[10]. Dự thảo Luật Cạnh tranh sửa đổi, truy cập ngày 27/11/2017, http://duthaoonline.quochoi.vn/ DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=1346&LanID=1438&TabIndex=1.