Đặt vấn đề
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Trong đó, trọng tài quy chế là hình thức giải quyết tranh chấp tại một trung tâm trọng tài theo quy định của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài đó. Trọng tài vụ việc là hình thức giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và trình tự, thủ tục do các bên thỏa thuận. Đặc điểm cơ bản của giải quyết tranh chấp này là tính thỏa thuận trọng tài của các bên có tranh chấp và phán quyết cuối cùng của trọng tài là phán quyết chung thẩm. Việc giải quyết tranh chấp bằng hình thức trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật hiện hành thống nhất các hình thức thỏa thuận cũng như quyền lựa chọn giải quyết tranh chấp làm cơ sở cho các bên thể hiện rõ quyền và nghĩa vụ của mình. Đồng thời, đây cũng là nguyên tắc cơ bản trong việc lựa chọn hình thức trọng tài và xác định những trường hợp cụ thể của thỏa thuận trọng tài thương mại bị vô hiệu để áp dụng chung thống nhất trong thực tiễn thi hành pháp luật trọng tài thương mại trong nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Quyền tự do thỏa thuận trọng tài thể hiện ý chí, nguyện vọng chính đáng của các bên có tranh chấp kinh doanh thương mại trong việc giải quyết tranh chấp và phải được thực hiện trong khung khổ của pháp luật. Khung khổ của pháp luật ở đây chính là những quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực hoặc vô hiệu của thỏa thuận trọng tài. Theo quy định của pháp luật trọng tài thương mại ở Việt Nam, thỏa thuận trọng tài phải được lập bằng văn bản. Thỏa thuận trọng tài thông qua thư, điện báo, telex, fax, thư điện tử hoặc hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài được coi là thỏa thuận trọng tài bằng văn bản. Mặt khác, khung khổ pháp luật là những quy định hiện hành bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia vào giải quyết tranh chấp bằng hình thức trọng tài thương mại trong nền kinh tế thị trường. Xuất phát từ những mục tiêu cơ bản đó, bài viết tập trung phân tích các quy định về các hình thức thỏa thuận trọng tài thương mại, quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp và thỏa thuận trọng tài thương mại bị vô hiệu theo pháp luật hiện hành ở nước ta, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
1. Các hình thức thỏa thuận trọng tài
Điều 16 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định các hình thức thỏa thuận trọng tài như sau: “1. Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng. 2. Thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các hình thức thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản: a) Thỏa thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật; b) Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên; c) Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên; d) Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác; đ) Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thỏa thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận”. Như vậy, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định rất linh hoạt trong việc xác định hình thức thỏa thuận trọng tài. Cụ thể:
Thứ nhất, thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng.
Các nhà làm luật sử dụng cụm từ “có thể” mang tính tự nguyện lựa chọn xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng trong thực tiễn đều được thừa nhận là hình thức hợp lý trong thỏa thuận trọng tài để giải quyết những tranh chấp trong kinh doanh thương mại sẽ, đã hoặc đang xảy ra. Đây là quy định khoa học và phù hợp với thực tiễn thỏa thuận trọng tài để giải quyết tranh chấp của các chủ thể kinh doanh thương mại trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Mặt khác, xét về thỏa thuận trọng tài, trong quy định này, các nhà làm luật không quy định nội dung chi tiết về thỏa thuận trọng tài. Tức là ở cả 02 hình thức, điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng đều thiếu vắng nội dung chi tiết về thỏa thuận trọng tài. So sánh quy định pháp luật của Việt Nam với các nước trên thế giới đều có điểm chung về nội dung thỏa thuận trọng tài trong các hình thức thỏa thuận như phân tích trên đây. Nghĩa là, hầu hết pháp luật các nước đều chỉ quy định điều khoản trọng tài phải thể hiện thỏa thuận đưa tranh chấp ra trọng tài để giải quyết. Ví dụ, Điều 7 Luật Mẫu UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế (Luật Mẫu); Điều 6 Luật Trọng tài của Anh năm 1996; Điều 1442 Luật Trọng tài của Pháp; Điều 1029 Luật Trọng tài của Đức[1], quy định thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi tranh chấp phát sinh. Ngoài ra, luật pháp các nước không quy định chi tiết nội dung cụ thể của thỏa thuận trọng tài mà do các bên tự quyết định, miễn là phải thỏa mãn yêu cầu là một “thỏa thuận” theo luật pháp về hợp đồng của nước có liên quan và phù hợp với yêu cầu của pháp luật nước đó. Từ đó cho thấy, Việt Nam cần thiết phải hướng dẫn, quy định chi tiết nội dung cụ thể trong thỏa thuận trọng tài. Thực tiễn pháp lý cho thấy, Nghị định số 63/2011/NĐ-CP ngày 28/7/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 (Nghị định số 63/2011/NĐ-CP) chưa đáp ứng được tính thống nhất chung của nội dung thỏa thuận phải đáp ứng yêu cầu thống nhất “thỏa thuận” của Bộ luật Dân sự năm 2015 hay là phải tuân thủ riêng bởi một sự hướng dẫn nào khác của cơ quan có thẩm quyền như thông tư của Bộ trưởng để áp dụng thống nhất các nội dung trong bản thỏa thuận trọng tài. Tính thiếu thống nhất này là một biểu hiện của sự chưa hoàn thiện pháp luật liên quan đến nội dung chi tiết về thỏa thuận trọng tài. Nghĩa là, thực tiễn thời gian qua, việc áp dụng hình thức thỏa thuận trọng tài theo điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng gặp phải một số khó khăn, bất cập. Do đó, Nghị định số 63/2011/NĐ-CP cần bổ sung nội dung này để hoàn thiện hơn về mặt pháp lý, đồng thời, phù hợp với nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản.
Đây là quy phạm bắt buộc phải áp dụng trong thực tiễn, dù thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng thì các bên trong giải quyết tranh chấp không được làm khác quy định này. Để xây dựng quy định này, các nhà làm luật đã nghiên cứu, đối chiếu, học tập kinh nghiệm xây dựng pháp luật của một số nước trên thế giới về hình thức thỏa thuận trọng tài bằng văn bản. Phần lớn luật trọng tài của các nước quy định thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Ví dụ, Điều 89 Luật Trọng tài của Anh năm 1996, Điều 1031 Luật Trọng tài của Đức quy định thỏa thuận trọng tài với người tiêu dùng phải được làm thành văn bản thỏa thuận trọng tài. Xét về phương diện thực tiễn, quy định này hoàn toàn phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay. Giả sử, trong Điều lệ Công ty cổ phần A có điều khoản quy định, các tranh chấp phát sinh giữa các cổ đông sáng lập của công ty với nhau hoặc với công ty sẽ được đưa ra Hiệp hội trọng tài B giải quyết. Trong trường hợp này, khi phát sinh tranh chấp, thành viên Công ty với tư cách là một bên tranh chấp có thể đưa ra Hiệp hội trọng tài B để giải quyết và coi điều khoản trong Điều lệ Công ty cổ phần A là thỏa thuận trọng tài bằng văn bản.
Ngoài ra, một số hình thức thỏa thuận khác cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản. Khoản 2 Điều 16 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã liệt kê 05 hình thức thỏa thuận được coi là xác lập dưới dạng văn bản gồm: (i) thỏa thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật; (ii) thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên; (iii) thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên; (iv) trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác; (v) qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thỏa thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận. Pháp luật của một số nước như Anh, Đức và Pháp cũng thống nhất thỏa thuận trọng tài phải lập thành văn bản, ngoài ra, thỏa thuận có thể là một quy định sẵn trong hợp đồng, hoặc một thỏa thuận riêng biệt ngoài hợp đồng chính hoặc là tài liệu, telex, thư điện tử. Theo pháp luật về trọng tài thương mại, Việt Nam cho phép thỏa thuận trọng tài có thể được lập theo hình thức khác miễn là các hình thức thỏa thuận đó được áp dụng hợp lệ trong thực tiễn và dưới dạng là văn bản.
Điều 17 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định về quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng, cụ thể: “đối với các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng, mặc dù điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hóa, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn thỏa thuận trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được quyền lựa chọn trọng tài hoặc Tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ được quyền khởi kiện tại Trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận”. Quy định này giống với quy định của một số nước trên thế giới về hình thức thỏa thuận trọng tài giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng. Ví dụ, Luật Trọng tài của Anh quy định thỏa thuận trọng tài ký kết với người tiêu dùng phải phù hợp với quy định về pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, Điều 1031 Luật Trọng tài của Đức cũng có quy định thỏa thuận trọng tài với người tiêu dùng phải được làm thành văn bản riêng. Khác với các nước trên thế giới quy định chỉ duy nhất người tiêu dùng có quyền thỏa thuận khởi kiện bằng trọng tài thương mại, Việt Nam quy định quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng mang tính linh hoạt không ấn định như tổ chức, cá nhân kinh doanh thương mại có thỏa thuận trọng tài. Theo đó, người tiêu dùng được quyền lựa chọn trọng tài thương mại hoặc Tòa án để giải quyết tranh chấp đối với các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng, cho dù điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hóa, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn thỏa thuận trọng tài. Mặt khác, nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ được quyền khởi kiện tại trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận. Tuy nhiên, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa làm rõ khái niệm “nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ” là những ai; có phải là tổ chức kinh tế có hoạt động kinh doanh thương mại không. Vì thế, vấn đề đặt ra, việc xác định tranh chấp giữa “nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ với người tiêu dùng” có phải là đối tượng thuộc khoản 2 Điều 3 Luật Trọng Tài thương mại năm 2010 hay không khi không thống nhất chung được khái niệm “nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ”. Ngoài ra, trong quy định về quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng cũng chưa thống nhất trong cách hiểu “điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều kiện chung” là điều khoản trọng tài nào và điều kiện chung là điều kiện gì. Đây chính là khiếm khuyết trong quy định của pháp luật liên quan đến thỏa thuận trọng tài ở khía cạnh của người tiêu dùng. Việc pháp luật không quy định, không giải thích “điều khoản trọng tài” và “điều kiện chung” dẫn đến việc áp dụng pháp luật về quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng trong thực tiễn những năm vừa qua gặp rất nhiều khó khăn. Như vậy, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 chưa quy định cụ thể, rõ ràng khái niệm riêng biệt giữa người tiêu dùng với người có sản phẩm hàng hóa, kinh doanh, thương mại phải áp dụng một thỏa thuận trọng tài riêng. Nghĩa là, việc thỏa thuận trọng tài là việc của các bên trong quan hệ kinh doanh thương mại, đồng nghĩa với việc một trong các bên đó cũng có thể là người tiêu dùng và thống nhất chung tại Điều 16 Luật Trọng tài thương mại 2010 là thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Như vậy, quy định về chủ thể phải áp dụng thỏa thuận trọng tài được xác lập dưới dạng văn bản trong pháp luật của nước ta chưa rõ ràng và thiếu logic khoa học, không áp dụng riêng cho những thỏa thuận trọng tài là người tiêu dùng như pháp luật của một số nước trên thế giới. Mặt khác, pháp luật không quy định một thỏa thuận riêng dành cho người tiêu dùng cùng tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại mà chỉ quy định chung chung ở quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng là chưa phù hợp với thẩm quyền giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, tức là tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại. Bởi vì, quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại nêu trên cũng tương thích với khái niệm về người tiêu dùng quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023, theo đó, “người tiêu dùng là người mua, sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức và không vì mục đích thương mại”. Do đó, pháp luật về trọng tài thương mại cần phải hoàn thiện về vấn đề này để bảo đảm quyền và lợi ích của các bên có quan hệ kinh doanh thương mại là đối tượng được áp dụng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại là ít nhất một bên có hoạt động thương mại và bên kia là người tiêu dùng không vì mục đích thương mại ở nước ta.
2. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu và tính độc lập của thỏa thuận trọng tài
2.1. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu
Đối với việc xác định thỏa thuận trọng tài vô hiệu, Điều 18 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định về các trường hợp được xem là thỏa thuận trọng tài giữa các bên có tranh chấp đã thỏa thuận bị vô hiệu trong thực tiễn. Cụ thể:
Một là, tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Nghĩa là, nội dung quy định tại Điều 2 là thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thương mại, theo đó, các nhà làm luật chia thành 03 nhóm tranh chấp cụ thể, trường hợp mà hai bên có tranh chấp không liên quan đến một trong các tranh chấp sau đây thì được xác định là thỏa thuận trọng tài vô hiệu: (i) tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; (ii) tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; (iii) tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài. Tuy nhiên, nhóm thứ ba “tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài” không được hướng dẫn cụ thể trong Luật Trọng tài thương mại năm 2010 cũng như trong các văn bản hướng dẫn thi hành. Vì thế, có những cách hiểu không thống nhất về “tranh chấp khác”, gây khó khăn trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về giải quyết bằng trọng tài thương mại. Cho nên, trên thực tế, nhiều thỏa thuận trọng tài bị Tòa án tuyên vô hiệu vì không thuộc thẩm quyền của trọng tài; nhiều phán quyết của trọng tài bị Tòa án tuyên hủy; kết quả giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại chưa cao. Điều này làm ảnh hưởng đến môi trường pháp lý, nhất là sự bảo đảm quyền tài phán của trọng tài trong giải quyết các tranh chấp thương mại ở Việt Nam hiện nay. Vì vậy, pháp luật trọng tài thương mại của Việt Nam cần phải hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu chung của thực tiễn về việc xác định thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu.
Hai là, người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Nếu thỏa thuận trọng tài được xác lập mà không phải là người đại diện theo pháp luật hoặc do Chủ tịch Hội đồng thành viên nhưng trong điều lệ công ty không quy định Chủ tịch Hội đồng thành viên được kiêm làm người đại diện theo pháp luật thì thỏa thuận trọng tài được xác định là vô hiệu. Nghiên cứu cho thấy, quy định này hoàn toàn phù hợp giữa lý luận và thực tiễn. Nó chứng minh tính đúng đắn về những tranh chấp trong kinh doanh là tranh chấp trong quá tình điều hành hoạt động kinh doanh của bộ máy quản trị trong doanh nghiệp gắn liền với quyền đại diện của doanh nghiệp với các chủ thể khác, trong đó có tổ chức giải quyết tranh chấp bằng hình thức trọng tài thương mại. Vì vậy, thỏa thuận trọng tài thương mại bị vô hiệu khi người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định Luật Trọng tài thương mại (Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP) quy định, người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật như sau: Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật quy định tại khoản 2 Điều 18 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 là người xác lập thỏa thuận trọng tài khi không phải là người đại diện theo pháp luật hoặc không phải là người được ủy quyền hợp pháp hoặc là người được ủy quyền hợp pháp nhưng vượt quá phạm vi được ủy quyền. Về nguyên tắc, thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm quyền xác lập thì thỏa thuận trọng tài đó vô hiệu. Trường hợp thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm quyền xác lập nhưng trong quá trình xác lập, thực hiện thỏa thuận trọng tài hoặc trong tố tụng trọng tài mà người có thẩm quyền xác lập thỏa thuận trọng tài đã chấp nhận hoặc đã biết mà không phản đối thì thỏa thuận trọng tài không bị vô hiệu.
Ba là, người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự. Khoản 3 Điều 3 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP quy định, người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự quy định tại khoản 3 Điều 18 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Trong trường hợp này, Tòa án cần thu thập chứng cứ để chứng minh người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự thì phải có giấy tờ, tài liệu chứng minh ngày, tháng, năm sinh hoặc kết luận của cơ quan có thẩm quyền hoặc quyết định của Tòa án xác định, tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Bốn là, hình thức của thỏa thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Đây là trường hợp thỏa thuận trọng tài không được xác lập bằng một trong các hình thức quy định tại Điều 16 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và hướng dẫn tại Điều 7 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP quy định thành 04 khoản riêng biệt, cụ thể: (i) trường hợp có nhiều thỏa thuận trọng tài được xác lập đối với cùng một nội dung tranh chấp thì thỏa thuận trọng tài được xác lập hợp pháp sau cùng theo thời gian có giá trị áp dụng; (ii) trường hợp thỏa thuận trọng tài có nội dung không rõ ràng, có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau thì áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự để giải thích; (iii) khi có sự chuyển giao quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch, hợp đồng mà trong giao dịch, hợp đồng đó các bên có xác lập thỏa thuận trọng tài hợp pháp thì thỏa thuận trọng tài trong giao dịch, hợp đồng vẫn có hiệu lực đối với bên được chuyển giao và bên nhận chuyển giao, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; (iv) việc gộp nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp để giải quyết trong cùng một vụ kiện được thực hiện khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: các bên thỏa thuận đồng ý gộp nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp vào giải quyết trong cùng một vụ kiện; quy tắc tố tụng trọng tài cho phép gộp nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp vào giải quyết trong cùng một vụ kiện.
Năm là, một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là vô hiệu. Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định, giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép như sau: khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu; lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó; đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình. Luật Trọng tài thương mại năm 2010 không quy định rõ khái niệm “bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép” là gì để thống nhất chung trong cách hiểu. Vì thế, các trung tâm trọng tài khi giải quyết tranh chấp giữa các bên cần phải áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 để tuyên bố giao dịch thương mại đó vô hiệu.
Sáu là, thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật. Đây thuộc trường hợp quy định tại Điều 123 Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu. Điều cấm của luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Nhìn nhận dưới góc nhìn khoa học pháp lý, các thỏa thuận trọng tài vô hiệu quy định tại Điều 18 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã tương thích với quy định của pháp luật dân sự, là văn bản gốc điều chỉnh tư cách pháp lý của cá nhân trong một tổ chức kinh tế khi thiết lập thỏa thuận trọng tài để giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại.
2.2. Tính độc lập của thỏa thuận trọng tài
Pháp luật về trọng tài thương mại của Việt Nam chưa quy định cụ thể, rõ về tính độc lập của thỏa thuận trọng tài. Điều 19 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định thỏa thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thỏa thuận trọng tài.
Nội dung quy định tại Điều 19 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 cho thấy, thỏa thuận trọng tài được thể hiện dưới hình thức một điều khoản nằm trong hợp đồng chính hay dưới hình thức văn bản riêng đi kèm hợp đồng chính thì thỏa thuận trọng tài thực chất là một hợp đồng nhỏ có nội dung khác biệt và giá trị độc lập với hợp đồng chính. Vì thế, khi hợp đồng bị thay đổi, hết hiệu lực thì thỏa thuận trọng tài vẫn có giá trị.
Như vậy, ngay cả trong trường hợp thỏa thuận trọng tài là một điều khoản nằm trong hợp đồng chính thì nó vẫn mang tính độc lập với hợp đồng chính vì thỏa thuận trọng tài có đối tượng pháp lý là xác định phương thức, cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong trường hợp có phát sinh tranh chấp giữa các bên, hoàn toàn khác so với đối tượng của hợp đồng chính là xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong một quan hệ pháp luật nhất định. Do đó, việc quy định hiệu lực độc lập của thỏa thuận trọng tài là hoàn toàn hợp lý, thể hiện sự tôn trọng ý chí của các bên trong việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, trong trường hợp hợp đồng chính vô hiệu thì việc xác định thỏa thuận trọng tài có vô hiệu hay không còn thụ thuộc vào nguyên nhân dẫn đến hợp đồng chính bị vô hiệu. Nếu nguyên nhân dẫn đến hợp đồng chính và thỏa thuận trọng tài vô hiệu là giống nhau thì khi đó cả hai cùng vô hiệu. Ví dụ: trường hợp thỏa thuận trọng tài là một điều khoản trong hợp đồng chính do một bên không có hoặc không đủ thẩm quyền ký kết thì cả hợp đồng chính và thỏa thuận trọng tài đều vô hiệu.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định về thỏa thuận trọng tài thương mại
Để bảo đảm sự phù hợp giữa lý luận và thực tiễn áp dụng quy định về hình thức thỏa thuận trọng tài, nghiên cứu cho thấy, Việt Nam cần hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại về một số nội dung sau:
Thứ nhất, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 cần sửa đổi, hoàn thiện về thỏa thuận trọng tài để khắc phục những hạn chế, bất cập như đã phân tích ở trên. Trong thời gian chưa kịp sửa đổi Luật Trọng tài thương mại năm 2010, Chính phủ cần sửa đổi Nghị định số 63/2011/NĐ-CP để bổ sung chi tiết nội dung về thỏa thuận trọng tài ở cả hình thức là điều khoản trọng tài trong hợp đồng và thỏa thuận riêng để quy định rõ về các chủ thể kinh doanh, nội dung, phạm vi tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại. Đồng thời, Việt Nam cần hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại, quy định thống nhất và khắc phục những bất cập trong quy định của pháp luật cũng như áp dụng pháp luật về hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng.
Thứ hai, Việt Nam cần nghiên cứu, tiếp thu kinh nghiệm pháp luật của một số nước trên thế giới trong quy định thỏa thuận trọng tài riêng đối với đối tượng tranh chấp kinh doanh thương mại mà một bên là thương nhân và bên kia là người tiêu dùng không vì mục đích thương mại và hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại để giải quyết hiệu quả các tranh chấp phát sinh trong thực tế phù hợp với hoạt động kinh doanh cũng như thông lệ quốc tế.
Thứ ba, quy định rõ hơn về quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng tại Điều 17 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, theo hướng: (i) “nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ” có tranh chấp giải quyết bằng hình thức trọng tài thương mại theo hướng đó là tranh chấp phát sinh giữa các bên, trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; (ii) “điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều kiện chung” là điều khoản trọng tài nào và điều kiện chung là điều kiện gì.
Thứ tư, quy định rõ “những tranh chấp không thuộc lĩnh vực quy định tại Điều 2 Luật Trọng tài thương mại” tại khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP về giải thích tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của trọng tài.
Thứ năm, sửa đổi các nội dung sau để bảo đảm tính thống nhất của thỏa thuận trọng tài:
- Làm rõ khái niệm “tính độc lập của thỏa thuận trọng tài” trong Luật Trọng tài thương mại năm 2010 để giải quyết những khó khăn, bất cập khi áp dụng quy định tính độc lập của thỏa thuận trọng tài trong thực tiễn.
- Làm rõ nội hàm trong trường hợp hợp đồng chính vô hiệu thì việc xác định thỏa thuận trọng tài có vô hiệu hay không vô hiệu thụ thuộc vào nguyên nhân dẫn đến hợp đồng chính bị vô hiệu. Nếu nguyên nhân dẫn đến hợp đồng chính và thỏa thuận trọng tài vô hiệu là giống nhau thì khi đó cả hai cùng vô hiệu để áp dụng thống nhất trên thực tế.
Kết luận
Thỏa thuận trọng tài đóng vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài. Tranh chấp thương mại chỉ được giải quyết theo phương thức trọng tài khi có thỏa thuận trọng tài giữa các bên tranh chấp. Thỏa thuận trọng tài có thể lập trước, đang hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Tòa án thì Tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được.
PGS.TS. Hồ Xuân Thắng
Khoa Luật - Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh
LS.NCS. Sin Thoại Khánh
Văn phòng Luật sư Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh
[1] TS. Đỗ Văn Đại và TS. Trần Hoàng Hải (2011), Pháp luật Việt Nam về trọng tài thương mại, Sách chuyên khảo, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật.