Thứ hai 09/06/2025 11:57
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật theo công ước quốc tế và pháp luật Việt Nam

Trong bài viết này, tác giả phân tích quyền của trẻ em khuyết tật theo Công ước quốc tế và pháp luật Việt Nam, từ đó, đưa ra một số biện pháp bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật hiện nay.

1. Khái niệm trẻ em khuyết tật và quyền của trẻ em khuyết tật

Trẻ em khuyết tật là những trẻ bị khiếm khuyết về mặt cấu trúc cơ thể, hay bị suy giảm về các chức năng của bản thân, do đó, trẻ bị hạn chế các khả năng hoạt động, cũng như khó khăn trong quá trình sinh hoạt và học tập, vụ chơi, lao động[1]. Các dạng khuyết tật ở trẻ gồm: Khuyết tật thính giác (khiếm thính), khuyết tật thị giác (khiếm thị), khuyết tật vận động, khuyết tật ngôn ngữ, khuyết tật trí tuệ và đa tật.

Trên phạm vi quốc gia cũng như quốc tế, hầu hết vẫn chưa đưa ra được một khái niệm thống nhất về quyền của trẻ em khuyết tật, có chăng chỉ gợi mở theo hướng liệt kê các quyền của trẻ em khuyết tật. Vì vậy, để đưa ra được khái niệm về quyền của trẻ em khuyết tật cần dựa trên các khái niệm về quyền, quyền con người, quyền trẻ em và quyền của người khuyết tật. Theo đó, quyền của trẻ em khuyết tật có thể được hiệu là một bộ phận của quyền con người, có quan hệ chặt chẽ với quyền con người. Theo đó, trẻ em khuyết tật được hưởng đầy đủ các quyền tự nhiên vốn có, trẻ được thực hiện hoặc không thực hiện các hoạt động một các tự nguyện mà không ai được phép cản trở, xâm phạm hay phân biệt đối xử chỉ vì lý do khuyết tật của trẻ.

2. Các quyền của trẻ em khuyết tật theo Công ước của Liên Hợp quốc và pháp luật Việt Nam hiện nay

2.1. Quyền của trẻ em khuyết tật theo Công ước của Liên Hợp quốc về quyền của người khuyết tật

Công ước của Liên Hợp quốc về quyền của người khuyết tật (Công ước) được Đại hội đồng Liên Hợp quốc thông qua ngày 13/12/2006, là công ước quốc tế toàn diện nhất về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khuyết tật. Theo đó, Công ước có nhiều những quy định riêng liên quan đến trẻ em khuyết tật nhằm bảo đảm việc trẻ em khuyết tật được hưởng tất các các quyền của mình như bao trẻ em bình thường khác và còn được hưởng những lợi ích tối ưu của trẻ khuyết tật, cụ thể như sau:

- Điều 3 quy định: Tôn trọng khả năng phát triển của trẻ em khuyết tật và tôn trọng quyền của trẻ em khuyết tật trong việc bảo tồn bản sắc của trẻ em.

- Tại Điều 7 quy định về trẻ em khuyết tật như sau: (i) Các quốc gia thành viên của Công ước này cam kết thực hiện những biện pháp cần thiết để bảo đảm trẻ em khuyết tật được hưởng thụ đầy đủ quyền con người và các quyền tự do cơ bản như những trẻ em khác; (ii) Trong tất cả các hoạt động có liên quan tới trẻ em khuyết tật, thì những lợi ích tối ưu nhất của một trẻ khuyết tật phải được quan tâm hàng đầu; (iii) Các quốc gia thành viên của Công ước này cam kết bảo đảm trẻ em khuyết tật có quyền tự do bày tỏ ý kiến của mình về tất cả các vấn đề có liên quan tới trẻ em, quan điểm của các em sẽ được xem xét một cách thích đáng phù hợp với lứa tuổi và sự chín chắn của các em, giống như các trẻ em khác và sẽ có những hỗ trợ phù hợp với lứa tuổi và tình trạng khuyết tật để có thể thực hiện được quyền đó.

- Điều 8 quy định: Khuyến khích thái độ tôn trọng quyền của người khuyết tật ở tất cả các cấp trong hệ thống giáo dục, bao gồm cả trẻ em ở mọi lứa tuổi (khoản 2, mục b).

- Điều 18 quy định: Trẻ em khuyết tật phải được đăng ký khai sinh ngay sau khi sinh ra và có quyền được đặt tên từ khi sinh ra, có quyền nhập quốc tịch, và trong khả năng tối đa có quyền được biết cha mẹ mình là ai và được cha mẹ chăm sóc (khoản 2).

- Điều 23 quy định về quyền được tôn trọng gia đình và tổ ấm cụ thể như sau: (i) Người khuyết tật kể cả trẻ em có quyền duy trì khả năng sinh sản của họ, trên cơ sở bình đẳng như người khác; (ii) Trong mọi trường hợp thì lợi ích tối ưu nhất của trẻ em sẽ được ưu tiên hàng đầu, các quốc gia thành viên của Công ước này cam kết đưa ra những hỗ trợ phù hợp cho người khuyết tật trong việc thực hiện nghĩa vụ nuôi dạy con cái; (iii) Các quốc gia thành viên của Công ước này cam kết bảo đảm trẻ em khuyết tật có quyền bình đẳng đối xử với cuộc sống gia đình, nhằm thừa nhận những quyền này và ngăn ngừa sự giấu diếm, cấm đoán, ruồng bỏ và cách ly trẻ em khuyết tật, các quốc gia thành viên của Công ước này cam kết cung cấp các thông tin và dịch vụ hỗ trợ đầy đủ, kịp thời cho trẻ em khuyết tật và gia đình trẻ em khuyết tật; (iv) Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không được phép cách ly một đứa trẻ khỏi bố mẹ vì lý do khuyết tật của trẻ đó hoặc của một trong hai hoặc của hai bố mẹ; (v) Các quốc gia thành viên của Công ước này cam kết nỗ lực để có giải pháp chăm sóc thay thế trẻ em khuyết tật trong một gia đình lớn hơn… khi mà gia đình của trẻ khuyết tật không thể chăm sóc và nuôi dưỡng các em.

- Khoản 2 Điều 24 quy định: Người khuyết tật không bị loại khỏi hệ thống giáo dục chung vì lý do bị khuyết tật vì rằng trẻ em khuyết tật không bị loại trừ khỏi chương trình giáo dục tiểu học miễn phí và bắt buộc hoặc chương trình trung học cơ sở vì lý do bị khuyết tật;

- Khoản 5 mục d Điều 30 quy định: Bảo đảm rằng trẻ em khuyết tật được tiếp cận bình đẳng như những đứa trẻ khác vào các hoạt động thể thao, vui chơi, giải trí, kể cả các hoạt động thể thao, vui chơi giải trí trong hệ thống giáo dục.

Như vậy, Công ước đã nêu rõ một số quyền đặc biệt của trẻ em khuyết tật, đồng thời quy định nghĩa vụ của các quốc gia thành viên Công ước trong việc thực hiện các cam kết nhằm bảo đảm các quyền lợi của trẻ em khuyết tật.

2.2. Các quyền của trẻ em khuyết tật theo pháp luật Việt Nam hiện nay

Trên cơ sở ghi nhận sự bình đẳng, không phân biệt đối xử trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật, trẻ em khuyết tật sẽ được hưởng tất cả các quyền mà pháp luật quy định. Theo đó, Điều 35 Luật Trẻ em năm 2016 về quyền của trẻ em khuyết tật quy định: “Trẻ em khuyết tật được hưởng đầy đủ các quyền của trẻ em và quyền của người khuyết tật theo quy định của pháp luật; được hỗ trợ, chăm sóc, giáo dục đặc biệt để phục hồi chức năng, phát triển khả năng tự lực và hòa nhập xã hội”. Dưới đây là phân tích về một số quyền tiêu biểu của trẻ em khuyết tật.

Thứ nhất, về quyền được giáo dục:

Ngay trong Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định Nhà nước ta luôn “tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hóa và học nghề”. Theo đó, trẻ em khuyết tật cũng có quyền được giáo dục như các trẻ em bình thường khác và được hưởng đầy đủ quyền này mà không có bất kỳ một sự phân biệt đối xử nào. Có thể thấy, trẻ khuyết tật cũng có nhu cầu học tập nhưng do khiếm khuyết cơ thể nên việc học tập của trẻ trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Vì vậy, Nhà nước ta luôn tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ khuyết tật được học tập thông qua các quy định riêng biệt mang tính ưu tiên dựa trên cơ sở khắc phục khiếm khuyết của trẻ như: Được nhập học ở độ tuổi cao hơn so với độ tuổi quy định đối với giáo dục phổ thông; được miễn, giảm học phí, chi phí đào tạo; được xét cấp học bổng, hỗ trợ phương tiện, đồ dùng học tập…

Tuy nhiên, do mỗi trẻ khuyết tật lại có những khiếm khuyết khác nhau nên Luật Người khuyết tật năm 2010 cũng đưa ra ba phương thức giáo dục khác nhau giành riêng cho trẻ em khuyết tật do ba, mẹ hoặc người giám hộ lựa chọn dựa trên sự phù hợp với cá nhân trẻ khuyết tật, đó là: Giáo dục hòa nhập, giáo dục bán hòa nhập và giáo dục chuyên biệt. Với các quy định như vậy, có thể thấy về cơ bản pháp luật Việt Nam phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế.

Thứ hai, về quyền được hưởng bảo trợ xã hội: Bảo trợ xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nước, xã hội và cộng đồng dành cho các đối tượng gặp phải rủi ro, bất hạnh vì nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến không đủ khả năng tự lo liệu cho cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình. Trẻ khuyết tật là một trong các nhóm đối tượng đó. Vì vậy, Luật Người khuyết tật năm 2010 đã dành riêng Chương VIII để quy định về nội dung bảo trợ xã hội cho người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng. Theo đó, chế độ bảo trợ xã hội cho trẻ em khuyết tật chủ yếu bao gồm: Chế độ trợ cấp, hỗ trợ cho trẻ khuyết tật và chế độ nuôi dưỡng trẻ khuyết tật tại các cơ sở bảo trợ xã hội.

Thứ ba, về quyền được chăm sóc sức khỏe:

Theo quy định tại Điều 14 Luật Trẻ em năm 2016 và tinh thần của Luật Người khuyết tật năm 2010 thì nội dung chế độ chăm sóc sức khỏe cho trẻ em khuyết tật gồm ba hoạt động sau: Chăm sóc sức khỏe ban đầu; khám, chữa bệnh và phục hồi chức năng.

Đối với hoạt động chăm sóc sức khỏe ban đầu: Theo quy định tại Điều 21 Luật Người khuyết tật năm 2010, trẻ khuyết tật được giáo dục, tuyên truyền, phổ biến kiến thức về chăm sóc sức khỏe; được tham gia chương trình giáo dục đặc biệt; được thực hiện các biện pháp phòng ngừa và can thiệp sớm nhằm nhận ra dấu hiệu sớm nhất của khuyết tật để kịp thời chuẩn đoán và điều trị có hiệu quả.

Đối với hoạt động khám, chữa bệnh: Trẻ khuyết tật được tạo điều kiện để thực hiện quyền khám chữa bệnh một cách bình đẳng, được ưu tiên khám, chữa bệnh dưới các hình thức như miễn phí, giảm phí, ưu tiên về thứ tự khám, chữa bệnh…

Đối với hoạt động phục hồi chức năng: Đây là nội dung đặc thù và đặc biệt quan trọng dành riêng cho trẻ em khuyết tật. Trẻ khuyết tật có thể phục hồi thông qua các cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng như: Viện chỉnh hình, phục hồi chức năng; Trung tâm chỉnh hình, phục hồi chức năng…; phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng - Đây là hình thức phục hồi mà trẻ có thể thực hiện ngay tại nơi với những người mà trẻ khuyết tật cùng sinh sống nhằm tạo sự bình đẳng về cơ hội và hòa nhập cộng đồng cho trẻ.

Thứ tư, quyền được tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí:

Điều 4 Luật Người khuyết tật năm 2010 cũng khẳng định: Trẻ khuyết tật có quyền tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội, được tiếp cận các dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch… phù hợp với dạng tật và mức độ tiếp cận. Trẻ khuyết tật có thể tham gia vào các hoạt động này trên hai phương diện: Thưởng thức các hoạt động do người khác thực hiện hoặc chính bản thân họ chủ động thực hiện các hoạt động tập luyện, biểu diễn, sáng tác, thi đấu thể thao… Có thể thấy, việc thưởng thức các hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí giúp cho trẻ khuyết tật có cơ hội mở mang trí tuệ, nhận thức, tăng cường sự hiểu biết, tích lũy kinh nghiệm sống, góp phần cải thiện đời sống tinh thần của trẻ. Còn việc tham gia trực tiếp vào các hoạt động xã hội sẽ giúp trẻ khuyết tật cải thiện sức khỏe, giải tỏa căng thẳng, rèn luyện cho trẻ các kỹ năng như: Khéo léo, dẻo dai…

Quyền được tham gia vào các hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí của trẻ khuyết tật là một trong những quyền đặc biệt quan trọng. Nhờ đó, trẻ khuyết tật có cơ hội được tiếp xúc, giao lưu, bộc lộ khả năng để khẳng định mình, nhanh chóng hòa nhập cộng đồng.

Như vậy, trẻ em khuyết tật ngoài được hưởng các quyền trẻ em quy định tại Mục 1, Chương II, Luật Trẻ em năm 2016 thì còn được hưởng một số quyền của người khuyết tật và được nhận sự hỗ trợ, chăm sóc đặc biệt để phục hồi chức năng, hòa nhập cộng đồng.

3. Một số giải pháp bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật

Trong quá trình triển khai thi hành Luật Trẻ em năm 2016 và Luật Người khuyết tật năm 2010, công tác bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật đã được Đảng, Nhà nước và xã hội thật sự quan tâm, tạo điều kiện và đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại những hạn chế, khó khăn, thách thức. Nguyên nhân của những hạn chế này là do: (i) Bản thân trẻ khuyết tật do những khiếm khuyết trên cơ thể nên gặp khó khăn trong việc truyền tải nhu cầu, mong muốn của bản thân mình tới cộng đồng; (ii) Công tác vận động, tuyên truyền cho cá nhân, tổ chức, xã hội cho chính trẻ khuyết tật và gia đình trẻ còn chưa mạnh mẽ, chưa sâu rộng dẫn đến tình trạng nhiều trẻ khuyết tật, gia đình có trẻ khuyết tật ở vùng sâu, vùng xa vùng nông thôn, miền núi còn chưa biết đến nội dung những chính sách, ưu đãi dành cho bản thân trẻ khuyết tật; (iii) Ngân sách nhà nước đầu tư cho trẻ em khuyết tật còn hạn chế, gặp nhiều khó khăn trong việc phân bổ ngân sách trung ương, huy động ngân sách địa phương; (iv) Hệ thống pháp luật về quyền của trẻ em khuyết tật chưa thực sự hoàn thiện, có nhiều nội dung của luật đã không còn phù hợp với hoàn cảnh thực tế của trẻ em khuyết tật hiện nay; (v) Chính quyền địa phương các cấp, các ngành chưa dành sự quan tâm đúng mức đến nhóm đối tượng này, vì thế, tình trạng trẻ khuyết tật bị phân biệt đối xử, bị miệt thị, lạm dụng, bạo lực, lãng quên vẫn xảy ra gây nhiều khó khăn cho quá trình bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ khuyết tật.

Do đó, việc bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật đang đặt ra nhiều thách thức và cần đưa ra những giải pháp hoàn thiện. Dưới đây là một số giải pháp cần áp dụng trong thời gian tới để nâng cao việc bảo vệ quyền của trẻ em khuyết tật, cụ thể:

Một là, tích cực thể chế hóa quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về trẻ em khuyết tật; công tác chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện Luật Người khuyết tật năm 2010.

Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan trung ương và các địa phương cần thực hiện tốt và đồng bộ công tác chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện Luật Người khuyết tật năm 2010 và các quy định khác về trẻ em khuyết tật. Các bộ, ngành và các địa phương cần quan tâm kịp thời ban hành các văn bản, quyết định cá biệt để xử lý và hướng dẫn xử lý những vấn đề bức xúc, vướng mắc hoặc tháo gỡ những khó khăn; đồng thời duy trì tốt công tác phối hợp giữa các bộ, ngành trong việc tổ chức thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật. Đây là điều kiện quan trọng góp phần thực hiện tốt công tác quản lý Nhà nước về người khuyết tật, trẻ em khuyết tật. Hằng năm, các cơ quan, bộ, ngành cần tổ chức kiểm tra việc thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở các địa phương, các cơ sở chăm sóc trẻ em khuyết tật.

Hai là, tăng cường xây dựng, hoàn thiện pháp luật về trẻ em khuyết tật.

Cần cân nhắc sửa đổi, bổ sung Luật Người khuyết tật năm 2016 theo hướng quy định riêng về quyền của trẻ em khuyết tật vì đây là đối tượng đặc thù, rất dễ bị tổn thương. Ngoài ra, cần ban hành những văn bản dưới Luật nhằm cụ thể hóa các chính sách của Đảng và Nhà nước dành cho nhóm đối tượng này. Những văn bản đó tập trung hướng vào các chính sách dành cho trẻ em khuyết tật trong các lĩnh vực như: Giáo dục, sức khỏe, bảo trợ xã hội… thông qua việc tham khảo ý kiến của chính trẻ và gia đình có trẻ khuyết tật để bảo đảm đáp ứng đúng đầy đủ, chính xác nhu cầu, mong muốn của trẻ em khuyết tật.

Bên cạnh đó, pháp luật cũng cần có những quy định về chế tài cụ thể đối với những hành vi vi phạm quyền của trẻ em khuyết tật. Tùy vào mức độ và đối tượng vi phạm mà các biện pháp chế tài đó phải bảo đảm tính phù hợp, đa dạng, linh hoạt đủ tính nghiêm khắc, răn đe đối với các hành vi vi phạm quyền của trẻ em khuyết tật.

Ba là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về việc bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật.

Việc tuyên truyền này phải được thực hiện với quy mô rộng lớn trên phạm vi cả nước, chú trọng vào các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Đối tượng hướng đến là tất cả cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội, từ đó thúc đẩy sự quan tâm, chia sẻ, có hành động thiết thực để chăm sóc, bảo vệ, giáo dục nhóm trẻ em khuyết tật. Hơn nữa, công tác tuyên truyền còn giúp trẻ khuyết tật và gia đình có trẻ khuyết tật xóa đi mặc cảm tự ti, tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội. Từ đó, thay đổi suy nghĩ của mọi người về trẻ em khuyết tật, hình thành ý thức tôn trọng, coi trẻ em khuyết tật là chủ thể bình đẳng như những trẻ em bình thường khác. Đây là nội dung đặc biệt quan trọng, nhờ đó trẻ khuyết tật sẽ nhận được cái nhìn thông cảm, sẻ chia, giúp đỡ từ cộng đồng, tạo động lực cho các em phấn đấu vượt qua mặc cảm, tự ti, nhành chóng hòa nhập công đồng.

Bốn là, tăng cường biện pháp huy động sự tham gia của người dân, đặc biệt chính bản thân gia đình có trẻ em khuyết tật vào việc bảo vệ quyền của trẻ em khuyết tật[2].

Đảng và Nhà nước ta cần có chính sách khuyến khích tạo điều kiện cho người dân tham gia vào mọi hoạt động trợ giúp trẻ em khuyết tật, các đề án về trợ giúp trẻ em khuyết tật. Đặc biệt là sự phối hợp của gia đình có người khuyết tật và trẻ em khuyết tật từ việc xác định đối tượng, đến việc lập kế hoạch triển khai thực hiện ở xã, phường, thị trấn để quản lý nguồn lực, giám sát, đánh giá. Gia đình được xem là nơi đầu tiên và cũng là nơi đóng vai trò quan trọng nhất trong việc hỗ trợ trẻ em khuyết tật khắc phục khó khăn, vươn lên tạo lập cuộc sống, hòa nhập cộng đồng. Vì vậy, bên cạnh chính sách hỗ trợ trực tiếp cho trẻ em khuyết tật cần phải hướng tới việc hỗ trợ cho hộ gia đình có trẻ em khuyết tật, nhằm giúp cho đối tượng này được chăm sóc tốt hơn, qua đó lợi ích của trẻ em khuyết tật được bảo đảm một cách bền vững và lâu dài.

Ngoài ra, để trẻ em khuyết tật có thể hưởng đầy đủ các quyền như trẻ em bình thường khác và hòa nhập với gia đình, cộng đồng và xã hội theo đúng khả năng của mình cần xây dựng những trung tâm chăm sóc trẻ em khuyết tật theo mô hình tổng hợp đan xen các hoạt động bao gồm: Hoạt động giáo dục đặc biệt, giáo dục chuyên biệt, giáo dục hòa nhập; hướng nghiệp và đào tạo nghề, chăm sóc y tế; phục hồi chức năng, hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao; chăm sóc nuôi dưỡng để các em có kỹ năng sống, có một nghề để tái hòa nhập với gia đình, cộng đồng và trở thành những thành viên có ích cho xã hội./.

ThS. GVC. Dương Hương Quế

Khoa Luật và Lý luận chính trị - Trường Đại học Thủy Lợi

[1]. Nhiều chính sách hỗ trợ trẻ em khuyết tật làm sao cho hiệu quả, đăng tải trên trang web https://tienphong.vn/nhieu-chinh-sach-ho-tro-tre-em-khuyet-tat-lam-sao-cho-hieu-qua-post1498392.tpo, truy cập ngày 01/6/2024.

[2]. Để thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ trẻ em khuyết tật, đăng tải trên trang web https://toquoc.vn/de-thuc-hien-hieu-qua-cac-chinh-sach-ho-tro-tre-em-khuyet-tat 20231010092608252.htm, truy cập ngày 01/6/2024.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 406), tháng 6/2024)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Xử lý hành vi sử dụng mã độc tống tiền theo pháp luật hình sự - Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Xử lý hành vi sử dụng mã độc tống tiền theo pháp luật hình sự - Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Hiện nay, các tội phạm sử dụng công nghệ cao để thực hiện các hành vi phạm tội diễn ra ngày càng phổ biến. Một trong những công nghệ cao để thực hiện các hành vi phạm tội, nguy hiểm, gây ra thiệt hại lớn cho xã hội được các tội phạm sử dụng nhiều nhất, chính là sử dụng mã độc tống tiền (Ransomware). Vì vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật để kịp thời phòng, chống những tác hại của Ransomware là thực sự cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Bài viết nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật của Hoa Kỳ và Trung Quốc, từ đó, kiến nghị, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Pháp luật về hòa giải thương mại của Việt Nam và Ấn Độ - Góc nhìn so sánh và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Việt Nam và Ấn Độ đều có khung pháp lý điều chỉnh hoạt động hòa giải thương mại, nhưng có sự khác biệt đáng kể về cơ chế vận hành và thực thi. Bài viết sử dụng phương pháp so sánh luật học để phân tích và đối chiếu quy định pháp luật giữa hai quốc gia, đồng thời, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp luật về hòa giải thương mại tại Việt Nam.

Vai trò của Nội các Nhật Bản trong hoạt động lập pháp và giá trị tham khảo cho Việt Nam

Nội các Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong quá trình lập pháp với quyền đề xuất hầu hết các dự thảo luật trình lên Quốc hội. Bài viết nghiên cứu, phân tích vị trí, vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của Nội các Nhật Bản trong hoạt động lập pháp, từ sáng kiến đến soạn thảo, đánh giá và thông qua luật. Đồng thời, so sánh với quy trình lập pháp tại Việt Nam, chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt quan trọng. Từ đó, đề xuất các giá trị mà Việt Nam có thể tham khảo nhằm nâng cao vị trí và vai trò của Chính phủ trong quá trình xây dựng pháp luật.

Hình phạt tiền - Dưới góc nhìn so sánh pháp luật hình sự Việt Nam với Liên bang Úc và kinh nghiệm cho Việt Nam

Hình phạt tiền ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong hệ thống hình phạt của nhiều quốc gia, kể cả Việt Nam và Liên bang Úc, như một biện pháp hiệu quả để xử lý các hành vi phạm tội, đặc biệt là các tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm do pháp nhân thực hiện. Bài viết phân tích quy định pháp luật hình sự về hình phạt tiền của Việt Nam và Liên bang Úc, làm rõ sự khác biệt về đối tượng pháp nhân chịu trách nhiệm, phương pháp xác định mức phạt, các yếu tố Tòa án cân nhắc và cơ chế thi hành; từ đó, rút ra một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo đối với Việt Nam.

Kết đôi dân sự theo pháp luật của Pháp và gợi mở quy chế pháp lý cho cặp đôi không muốn kết hôn tại Việt Nam

Trên thế giới, nhiều quốc gia đã ghi nhận và thiết lập quy định liên quan đến vấn đề chung sống như vợ chồng, bởi đây là hiện tượng khách quan và phổ biến trong xã hội. Bộ luật Dân sự Pháp đã thiết kế chế định kết đôi dân sự để điều chỉnh mối quan hệ giữa các cặp đôi chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn. Bài viết phân tích chế định kết đôi dân sự ở Pháp, thực trạng chung sống như vợ chồng ở Việt Nam và gợi mở về một số thay đổi của chính sách, pháp luật hôn nhân và gia đình tại Việt Nam.
Kiện phái sinh theo pháp luật của Vương quốc Anh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam[1]

Kiện phái sinh theo pháp luật của Vương quốc Anh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam[1]

Kiện phái sinh là một cơ chế pháp lý quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của cổ đông và công ty. Hình thức kiện này đã hình thành từ rất lâu tại Anh và được xây dựng dựa trên nền tảng thông luật. Ở Việt Nam, kiện phái sinh mới chỉ được ghi nhận thông qua các quy định pháp luật trong thời gian gần đây. Bài viết phân tích các quy định pháp lý về hình thức kiện phái sinh tại Vương quốc Anh, đánh giá những ưu điểm, hạn chế của cơ chế này, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện cơ chế kiện phái sinh, phù hợp với tình hình thực tiễn tại Việt Nam.

Xây dựng mô hình Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ tại Việt Nam - Kinh nghiệm từ Nhật Bản và Vương quốc Anh

Bài viết so sánh mô hình Tòa Thượng thẩm sở hữu trí tuệ chuyên sâu Nhật Bản và hệ thống Tòa án sở hữu trí tuệ xét xử linh hoạt ở Anh, từ đó, rút ra khuyến nghị cho Việt Nam, đề xuất thành lập Tòa án chuyên biệt về sở hữu trí tuệ tại các trung tâm kinh tế lớn, kết hợp mô hình xét xử phù hợp để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả.

Thuế carbon và cơ chế điều chỉnh biên giới carbon - Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý khung pháp lý cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada trong thiết kế và thực thi chính sách định giá carbon, đồng thời, chỉ ra những khoảng trống của pháp luật Việt Nam, đặc biệt, về Hệ thống đo lường, giám sát phát thải và Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon. Trên cơ sở đó, đề xuất lộ trình xây dựng luật thuế carbon, tích hợp Hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định, Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon nội địa và quy trình quản lý thuế minh bạch, giúp Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, bảo vệ doanh nghiệp và thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ - Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu về trí tuệ nhân tạo (AI), sự cần thiết ứng dụng AI trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) nhìn từ kinh nghiệm của một số quốc gia, khu vực dẫn đầu trong việc ứng dụng AI vào bảo hộ quyền SHTT như Hoa Kỳ, châu Âu, Trung Quốc… từ đó, nghiên cứu đưa ra một số gợi mở cho việc ứng dụng AI trong việc hoàn thiện pháp luật liên quan đến việc ứng dụng AI vào hoạt động bảo hộ quyền SHTT.

Chuẩn hợp đồng (Quasi contract) - Cơ sở pháp lý và đề xuất áp dụng tại Việt Nam

Bài viết phân tích khái niệm chuẩn hợp đồng (Quasi contract) trong hệ thống pháp luật Common Law và sự tương đồng với một số quy định trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, đồng thời đề xuất việc nghiên cứu lựa chọn có chọn lọc và áp dụng Quasi contract vào hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp và bảo vệ quyền lợi các bên.

Bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo - Nhìn từ thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết phân tích chính sách bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư liên quan đến trí tuệ nhân tạo (AI) ở một số quốc gia trên thế giới, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam về vấn đề này.

Cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả của bên thứ ba tại Hoa Kỳ và kinh nghiệm cho Việt Nam

Bài viết phân tích cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả của bên thứ ba (cơ chế Safe Harbor) trong luật pháp Hoa Kỳ và Việt Nam, từ đó, đưa ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật liên quan đến các trường hợp miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet.

Xây dựng luật thuế các-bon - Kinh nghiệm Singapore và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Thuế các-bon là một công cụ tài chính quan trọng nhằm giảm phát thải khí nhà kính bằng cách định giá lượng khí CO₂ thải ra môi trường. Việc áp dụng thuế này không chỉ giúp kiểm soát ô nhiễm mà còn tạo nguồn thu để đầu tư vào các giải pháp phát triển bền vững. Trong bối cảnh đã có nhiều quốc gia xây dựng, ban hành và áp dụng thuế các-bon, Việt Nam cần cân nhắc xây dựng khung pháp lý phù hợp cho việc áp dụng thuế các-bon trong nước. Singapore là một trong những quốc gia đi đầu ở Đông Nam Á trong xây dựng, áp dụng pháp luật về thuế các-bon với nhiều điểm nổi bật mà Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc, phù hợp với thực tế của Việt nam. Xuất phát từ đó, bài viết làm rõ một số kinh nghiệm nổi bật của Singapore về xây dựng Luật thuế các-bon, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

Xác định tình trạng việc làm của người làm việc thông qua nền tảng công nghệ theo Chỉ thị (EU) 2024/2831 và khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích quy định về xác định tình trạng việc làm của người làm việc thông qua nền tảng công nghệ theo Chỉ thị (EU) 2024/2831 ngày 23/10/2024 của Nghị viện và Hội đồng châu Âu về việc cải thiện điều kiện làm việc đối với công việc nền tảng (Chỉ thị (EU) 2024/2831) và thực trạng xác định tình trạng lao động tại Việt Nam hiện nay, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

Miễn trừ thông báo tập trung kinh tế - Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Tập trung kinh tế là quá trình giảm số lượng doanh nghiệp độc lập trên thị trường thông qua sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh nhằm mở rộng quy mô và nâng cao khả năng cạnh tranh. Hành vi này giúp tối ưu nguồn lực nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ hạn chế cạnh tranh, dẫn đến độc quyền, ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường và người tiêu dùng. Pháp luật cạnh tranh của Mỹ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản kiểm soát tập trung kinh tế qua quy định về thông báo giao dịch và các trường hợp miễn trừ thông báo đối với hành vi tập trung kinh tế ít tác động đến thị trường. Từ kinh nghiệm của những quốc gia này về các trường hợp được miễn thông báo tập trung kinh tế, nghiên cứu đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm