Bên cạnh 09 nhiệm vụ trọng tâm và 06 giải pháp chủ yếu, Bộ, Ngành Tư pháp đã xác định nhiệm vụ cụ thể trong các lĩnh vực công tác năm 2024[1] như sau:
1. Công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật và pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật
Một là, tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả Kết luận số 19-KL/TW ngày 14/10/2021 của Bộ Chính trị và Đề án định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV; nghiên cứu rà soát để kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc nghiên cứu, đề xuất xây dựng mới các văn bản quy phạm pháp luật được giao tại Quyết định số 2114/QĐ-TTg ngày 16/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ; tiếp tục nghiên cứu, đề xuất bổ sung nhiệm vụ lập pháp mới. Tập trung xây dựng, hoàn thiện và triển khai thi hành các dự án luật mà Bộ Tư pháp được giao chủ trì soạn thảo thuộc chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024 và các năm tiếp theo; rà soát, đề xuất sửa đổi Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ; nghiên cứu, đề xuất sửa Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Chủ động, tích cực đôn đốc các Bộ, ngành thực hiện bảo đảm tiến độ, chất lượng các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, nhất là các dự án luật có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tháo gỡ khó khăn cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội... Tập trung thực hiện tốt các giải pháp nâng cao chất lượng công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật nhằm ngăn ngừa tình trạng tham nhũng, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ đã được xác định tại Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 14/8/2023 của Chính phủ.
Tiếp tục thi hành nghiêm, hiệu quả Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật; Chỉ thị số 43/CT-TTg ngày 11/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao chất lượng công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cường hiệu quả thi hành pháp luật. Thực hiện tốt các giải pháp cải thiện chỉ số Cải thiện chất lượng các quy định của pháp luật thuộc Bộ chỉ số Đổi mới sáng tạo (GII).
Hai là, nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả công tác thẩm định đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; kiểm soát chặt chẽ việc quy định thủ tục hành chính; theo dõi sát kết quả tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm định của cơ quan chủ trì soạn thảo.
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, xử lý văn bản trái pháp luật; chú trọng xử lý, rà soát văn bản quy phạm pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, nhất là tham mưu tổ chức thực hiện hiệu quả hoạt động của Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ về rà soát văn bản quy phạm pháp luật, gắn với việc thực hiện nhiệm vụ rà soát văn bản quy phạm pháp luật theo yêu cầu của Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 theo Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ (Đề án 06). Chú trọng phát huy vai trò của Tổ công tác đối với những việc cụ thể, phức tạp liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước của nhiều bộ, ngành. Thực hiện đúng quy định, có chất lượng công tác hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật thống nhất trong cả nước kỳ 2019 - 2023 và công bố kết quả hệ thống hóa để bảo đảm tính công khai, minh bạch, dễ tiếp cận của hệ thống pháp luật. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giới thiệu, hướng dẫn, khai thác sử dụng Bộ Pháp điển để đáp ứng việc tiếp cận, tìm hiểu, sử dụng pháp luật của người dân, tổ chức. Tổ chức triển khai hiệu quả Đề án “Nâng cao chất lượng và hiệu quả khai thác, sử dụng Bộ pháp điển” sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
2. Công tác tổ chức thi hành pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật, quản lý xử lý vi phạm hành chính
Một là, tăng cường công tác theo dõi thi hành pháp luật; tổ chức triển khai kịp thời, có hiệu quả các văn bản quy phạm pháp luật; thường xuyên chỉ đạo rà soát, đánh giá, tổng kết tình hình tổ chức thi hành pháp luật, nhằm kịp thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc, cản trở hoạt động đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp cũng như đời sống của nhân dân, các vấn đề mới phát sinh cần điều chỉnh để kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc đề xuất cơ quan có thẩm quyền sửa đổi để phù hợp với tình hình thực tiễn. Theo dõi, đôn đốc, kiểm soát chặt chẽ tình hình xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh từ đó đề xuất các giải pháp để hạn chế cơ bản và tiến tới chấm dứt tình trạng chậm, nợ ban hành văn bản quy định chi tiết. Thực hiện cập nhật đầy đủ, kịp thời, chính xác văn bản quy phạm pháp luật thuộc trách nhiệm, thẩm quyền của cơ quan, địa phương mình trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật theo quy định. Thực hiện hiệu quả kế hoạch theo dõi thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm, liên ngành năm 2024; nghiên cứu, xây dựng Đề án “Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật giai đoạn 2025 - 2030”. Tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả, thực chất các giải pháp nâng cao điểm số và duy trì thứ hạng chỉ số Chi phí tuân thủ pháp luật (Chỉ số B1).
Hai là, tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm, hiệu quả Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn thi hành; tiếp tục hoàn thiện thể chế về xử lý vi phạm hành chính, trong đó tập trung tham mưu xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính; Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 19/2020/NĐ-CP ngày 12/02/2020 của Chính phủ về kiểm tra, xử lý kỷ luật trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Tăng cường kiểm tra liên ngành tình hình thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Ba là, đẩy mạnh công tác bồi dưỡng, tập huấn chuyên sâu và truyền thông về xử lý vi phạm hành chính, theo dõi thi hành pháp luật và chỉ số B1.
3. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở
Một là, tiếp tục tổ chức nghiêm, hiệu quả Kết luận số 80-KL/TW ngày 20/6/2020 của Ban Bí thư về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân (Kết luận số 80-KL/TW); Quyết định số 1521/QĐ-TTg ngày 06/10/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Kết luận số 80-KL/TW, nhất là triển khai hiệu quả các đề án lớn về phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở, tiếp cận pháp luật mới được Thủ tướng Chính phủ ban hành để tạo ra sự đổi mới căn bản về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật theo yêu cầu của Kết luận số 80-KL/TW và Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW); thực hiện đầy đủ, phát huy hiệu quả vai trò của Hội đồng Phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật trung ương và các thành viên Hội đồng Phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật các cấp trong hướng dẫn, chỉ đạo, triển khai thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thuộc phạm vi quản lý; tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác phối hợp, quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật, trọng tâm là chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ, giải quyết, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc; kiểm tra, sơ kết, tổng kết, xây dựng, nhân rộng các cách thức, mô hình phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả; thực hiện đánh giá hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật theo hướng lượng hóa kết quả đầu ra, ý thức chấp hành pháp luật là thước đo hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; triển khai ký kết các chương trình phối hợp mới...
Hai là, đổi mới, đa dạng nội dung, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật một cách toàn diện, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với nhu cầu xã hội và từng nhóm đối tượng, địa bàn, lĩnh vực, chú trọng đối tượng đặc thù; tập trung phổ biến các văn bản mới của Đảng, Nhà nước, bám sát các vấn đề dư luận xã hội quan tâm hoặc cần định hướng dư luận xã hội, các vấn đề nổi cộm; đẩy mạnh truyền thông chính sách trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật để tạo đồng thuận xã hội, coi đây là giải pháp quan trọng để gắn kết chặt chẽ công tác xây dựng pháp luật với công tác tổ chức thi hành pháp luật; nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật trong nhà trường, thường xuyên đổi mới chương trình, giáo trình, phương pháp dạy học và đặc biệt là xây dựng chuẩn điều kiện về kiến thức, kỹ năng, phẩm chất cần thiết khác cho giáo viên, giảng viên của môn pháp luật, giáo dục công dân; thực hiện chuyển đổi số trong phổ biến, giáo dục pháp luật, trọng tâm là tập trung xây dựng Hệ thống thông tin phổ biến, giáo dục pháp luật từ trung ương đến địa phương và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Chuyển đổi số trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật”.
Ba là, tiếp tục thực hiện hiệu quả Luật Hòa giải ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành; tập trung củng cố, kiện toàn mạng lưới tổ hòa giải ở cơ sở và đội ngũ hòa giải viên; nâng cao chất lượng công tác hoà giải ở cơ sở nhằm giải quyết hiệu quả các mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân dân, tạo sự đoàn kết trong cộng đồng dân cư; tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn triển khai, xây dựng nhân rộng mô hình hòa giải điển hình về hòa giải ở cơ sở; phát huy, huy động đội ngũ luật sư, luật gia, thẩm phán, người hiểu biết pháp luạt tham gia công tác hòa giải ở cơ sở.
4. Công tác thi hành án dân sự, theo dõi thi hành án hành chính
Một là, tiếp tục quán triệt, cụ thể hoá kịp thời, đầy đủ chủ trương, định hướng của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ liên quan đến công tác thi hành án dân sự, theo dõi thi hành án hành chính, nhất là Chỉ thị số 04-CT/TW ngày 02/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; Kết luận số 05-KL/TW ngày 03/6/2021 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 07/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng; Quy định số 132-QĐ/TW ngày 27/10/2023 của Bộ Chính trị ban hành quy định về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
Hai là, đẩy mạnh công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự, thi hành án hành chính. Tập trung tham mưu sửa đổi, bổ sung Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự; tổng kết thi hành Luật Thi hành án dân sự, Chỉ thị số 05/CT-TTg và Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 15/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ, đề xuất và tập trung xây dựng Luật Thi hành án dân sự sửa đổi; sơ kết 02 năm thực hiện Chỉ thị số 04-CT/TW của Bộ Chính trị. Phối hợp với Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá, đề xuất tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, bất cập có liên quan trong các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Phá sản và các văn bản hướng dẫn, thi hành, các quy định về quản lý, xử lý vật chứng, tài sản, giám định tư pháp, định giá tài sản… để giải quyết những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn.
Ba là, phấn đấu hoàn thành đạt và vượt các chỉ tiêu thi hành án dân sự năm 2024. Tập trung chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; các vụ việc tín dụng, ngân hàng; giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài..., nhất là các vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi, chỉ đạo. Tổ chức thực hiện nghiêm các quy định của Đảng và Nhà nước về công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong toàn hệ thống thi hành án dân sự.
Bốn là, tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả Luật Tố tụng hành chính năm 2015; các kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội về việc chấp hành pháp luật tố tụng hành chính và thi hành án hành chính và Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 15/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ. Tăng cường kiểm tra tình hình chấp hành pháp luật tố tụng hành chính và thi hành án hành chính, tập trung tại các địa phương có số lượng vụ việc khiếu kiện, thi hành án hành chính lớn, phức tạp, kéo dài nhằm phát hiện các sai phạm để chấn chỉnh, xem xét xử lý theo quy định.
Năm là, tiếp tục thực hiện sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và xây dựng đội ngũ chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành án dân sự vững về chuyên môn, nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị vững vàng, liêm chính, hoạt động hiệu quả...; thực hiện công khai, minh bạch, dân chủ trong công tác tuyển dụng, nâng ngạch, chuyển ngạch công chức thi hành án dân sự. Thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; bảo đảm kỷ luật, kỷ cương hành chính; phát huy dân chủ và sức mạnh tập thể. Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho các chức danh, vị trí việc làm. Trình cấp có thẩm quyền phê duyệt Đề án biên chế tổng thể Hệ thống tỏ chức thi hành án dân sự giai đoạn 2023 - 2026.
Sáu là, tăng cường công tác tự kiểm tra, kiểm tra công vụ, nội bộ, kịp thời chấn chỉnh, xem xét trách nhiệm đối với người đứng đầu đơn vị thực hiện không hiệu quả công tác kiểm tra, tự kiểm tra. Tập trung kiểm tra, giám sát đối với công tác thi hành án liên quan đến thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; thu hồi nợ cho các tổ chức tín dụng; công tác xác minh, phân loại án; thẩm định giá, bán đấu giá tài sản thi hành án. Kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm những công chức có biểu hiện lợi dụng, lạm dụng chức vụ để tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về đạo đức, lối sống.
Bảy là, tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác phối hợp liên ngành từ trung ương đến địa phương; ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung và triển khai thực hiện có hiệu quả, thực chất các quy chế phối hợp liên ngành; chủ động tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương và các ban, bộ, ngành liên quan trong việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thi hành án dân sự.
Tám là, bảo đảm kinh phí hoạt động thường xuyên cho cơ quan thi hành án dân sự, các khoản kinh phí đặc thù trong hoạt động thi hành án dân sự như: Kinh phí thuê kho vật chứng, thuê bảo quản tang vật, tiêu hủy tang vật, kinh phí cưỡng chế thi hành án dân sự, tổ chức thi hành các vụ án lớn thuộc diện Ban Chỉ đạo phòng, chống tham những tiêu cực chỉ đạo...; tổ chức triển khai hiệu quả, đúng tiến độ Đề án “Đầu tư trang thiết bị phương tiện làm việc cho các cơ quan thi hành án dân sự giai đoạn 2021 - 2025”; các dự án đầu tư xây dựng trụ sở làm việc, kho vật chứng trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021 - 2025; đẩy nhanh tiến độ sắp xếp, xử lý nhà đất các cơ quan thi hành án dân sự và thực hiện nghiêm các quy định về công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Chín là, tăng cường công tác truyền thông, kịp thời thông tin đầy đủ, khách quan về hoạt động thi hành án dân sự, thi hành án hành chính, nhằm tạo sự đồng thuận, ủng hộ của xã hội, nhân dân đối với công tác thi hành án dân sự; tăng cường ứng dựng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong Hệ thống thi hành án dân sự; tiếp tục phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao triển khai hiệu quả dịch vụ tư pháp trực tuyến về thu, nộp tạm ứng án phí, lệ phí trên Cổng dịch vụ công quốc gia.
5. Công tác hộ tịch, quốc tịch, chứng thực
Một là, tiếp tục triển khai có hiệu quả Luật Hộ tịch và các văn bản quy định chi tiết thi hành; triển khai hiệu quả Dự án “Xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch”; nghiên cứu đề xuất giải pháp phù hợp nhằm đáp ứng yêu cầu giải quyết thủ tục hành chính trong lĩnh vực trên môi trường điện tử phù hợp chủ trương chuyển đổi số, xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số; triển khai các nhiệm vụ được giao tại Đề án số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030, trong đó tập trung đẩy mạnh việc số hóa sổ hộ tịch; theo dõi thường xuyên, kịp thời hướng dẫn, tháo gỡ các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện việc liên thông 02 nhóm tục hành chính liên quan đến đăng ký khai sinh, đăng ký khai tử, thực hiện đăng ký hộ tịch trực tuyến...; tiếp tục triển khai Đề án “Thí điểm liên thông dữ liệu cấp giấy chứng sinh, giấy báo tử để thực hiện thủ tục đăng ký khai sinh, đăng ký khai tử trên môi trường điện tử”.
Hai là, tiếp tục thực hiện nhiệm vụ được giao tại Tiểu Đề án 2 giai đoạn 2024 - 2025; Kế hoạch triển khai Thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và trật tự của Liên Hợp quốc theo Quyết định số 402/QĐ-TTg ngày 20/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó tập trung nghiên cứu các giải pháp nhằm tạo điều kiện cho trẻ em là con của công dân Việt Nam với người nước ngoài, đang cư trú tại Việt Nam, người di cư (đặc biệt là người di cư tại khu vực biên giới; phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số) được đăng ký khai sinh và cấp giấy tờ về quốc tịch. Thực hiện kết nối, chia sẻ dữ liệu quốc tịch với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào việc giải quyết thủ tục hành chính về quốc tịch…
Ba là, tiếp tục hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực hộ tịch, quốc tịch, chứng thực nhằm thực thi phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính (xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch; Nghị định số 87/2020/NĐ-CP ngày 28/7/2020 quy định về Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, đăng ký hộ tịch trực tuyến; Nghị định số 16/2020/NĐ-CP ngày 03/02/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam; Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch).
6. Công tác lý lịch tư pháp, đăng ký biện pháp bảo đảm
Một là, triển khai thực hiện nghiêm, hiệu quả Luật Lý lịch tư pháp và các văn bản hướng dẫn, thi hành; Chỉ thị số 23/CT-TTg ngày 09/7/2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp. Tăng cường công tác phối hợp liên ngành trong công tác tra cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu lý lịch tư pháp; tiếp tục đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong công tác xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và cấp Phiếu lý lịch tư pháp.
Hai là, tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm, hiệu quả Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và Nghị định số 99/2022/NĐ-CP ngày 30/11/2022 của Chính phủ về đăng ký biện pháp bảo đảm; xây dựng dự thảo các chính sách lớn, cơ bản trong nghiên cứu về đề xuất xây dựng Luật Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin về chuyển đổi số trong lĩnh vực đăng ký biện pháp bảo đảm hướng tới hệ thống đăng ký, cung cấp thông tin trực tuyến về biện pháp bảo đảm bằng động sản có đủ năng lực đáp ứng nhu cầu phát triển các chuỗi cung ứng vốn, phát triển thị trường tài chính - kinh tế ổn định, lành mạnh đồng thời phục vụ tốt hơn cho yêu cầu về hoạch định và quản lý chính sách vĩ mô.
7. Công tác bổ trợ tư pháp
Một là, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp như: Xây dựng, trình Chính phủ, Quốc hội dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản; lập hồ sơ đề nghị Chính phủ, Quốc hội cho ý kiến về hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Luật sư, Luật Giám định tư pháp; lập hồ sơ trình Chính phủ đề nghị xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 77/2008/NĐ-CP ngày 16/7/2008 của Chính phủ về tư vấn pháp luật.
Hai là, tập trung triển khai thực hiện hiệu quả các văn bản, đề án trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp như: Kết luận số 69-KL/TW ngày 24/02/2020 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 30/3/2009 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật sư; Nghị quyết số 172/NQ-CP ngày 19/11/2020 của Chính phủ về chính sách phát triển nghề công chứng, Nghị định số 47/2023/NĐ-CP ngày 03/7/2023 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2017/NĐ-CP ngày 16/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu giá tài sản; Chỉ thị số 40/CT-TTg ngày 02/11/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác quản lý nhà nước trong hoạt động đấu giá tài sản; Quyết định số 250/QĐ-TTg ngày 28/02/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp”.
Ba là, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bổ trợ tư pháp; chú trọng công tác kiểm tra, thanh tra chuyên ngành, kịp thời xử lý nghiêm các vi phạm và đề xuất các giải pháp phòng ngừa, hạn chế hành vi vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực bổ trợ tư pháp; nâng cao trách nhiệm tự quản của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong lĩnh vực luật sư, công chứng, đấu giá tài sản.
8. Công tác trợ giúp pháp lý, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
Một là, nâng cao vai trò, năng lực, tính chuyên nghiệp, chất lượng và tăng cường truyền thông, ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hoá hệ thống trợ giúp pháp lý; thực hiện hiệu quả cơ chế trực trợ giúp pháp lý tại Toà án, trong điều tra hình sự và phối hợp trong tố tụng hoạt động của chính quyền cơ sở để người dân dễ tiếp cận. Tiếp tục tổ chức thi hành hiệu quả Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn, thi hành. Đẩy mạnh việc thực hiện Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai đoạn 2015 - 2025; triển khai hiệu quả 03 Chương trình mục tiêu quốc gia[2]. Tập trung vào thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý, đặc biệt là vụ việc tham gia tố tụng. Tăng cường và nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý.
Hai là, tiếp tục triển khai đồng bộ các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, trong đó tập trung hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp; thực hiện hiệu quả Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2021 - 2025; thực hiện duy trì mạng lưới tư vấn pháp luật cho người dân, doanh nghiệp. Tổ chức thực hiện hiệu quả Đề án “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp giai đoạn 2022-2030”.
9. Công tác pháp luật quốc tế
Một là, tổ chức thực hiện Chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng ngừa, giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế sau khi được Ban Bí thư ban hành; tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 27/CT-TTg ngày 10/7/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác quản lý nhà nước về đầu tư và phòng ngừa việc phát sinh các vụ việc tranh chấp đầu tư quốc tế; Quyết định số 14/2020/QĐ-TTg ngày 08/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế phối hợp giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế.
Hai là, chủ động thực hiện các giải pháp phòng ngừa; tăng cường năng lực giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện trong hoạt động đầu tư quốc tế. Tập trung giải quyết tốt các vụ việc đang có tranh chấp; chủ động báo cáo để phân công giải quyết các vụ việc phát sinh mới, bảo đảm quyền lợi của Chính phủ, người dân, doanh nghiệp; tham gia tích cực vào việc xử lý các vấn đề pháp luật quốc tế phát sinh…
Ba là, hoàn thiện thể chế pháp luật về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, bảo đảm tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và sự phát triển của kinh tế - xã hội; nghiên cứu xây dựng Luật Tương trợ tư pháp về dân sự.
10. Công tác hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp
Một là, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật, cải cách tư pháp, góp phần bảo đảm các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp theo đúng nguyên tắc, định hướng và các nhiệm vụ, giải pháp đã xác định trong Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 09/12/2009 của Ban Bí thư khóa X về hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp (Chỉ thị số 39-CT/TW), Kết luận số 73-KL/TW ngày 20/5/2020 của Ban Bí thư về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW (Kết luận số 73-KL/TW); triển khai thực hiện hiệu quả Nghị định thay thế Nghị định số 113/2014/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật sau khi được Chính phủ ban hành. Tăng cường theo dõi, đôn đốc, kiểm tra tình hình thực hiện Kết luận số 73-KL/TW của Ban Bí thư, Chỉ thị số 39-CT/TW; nâng cấp Cơ sở dữ liệu về hợp tác pháp luật để khai thác, sử dụng hiệu quả thông tin, kết quả hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp.
Hai là, chủ động tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác quốc tế theo đúng định hướng công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước, Kết luận 73-KL/TW của Ban Bí thư và Đề án định hướng tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế của Bộ Tư pháp trong giai đoạn 2022 - 2026, trong đó chú trọng và thực hiện hiệu quả, thực chất các hoạt động hợp tác với các đối tác đặc biệt, trọng tâm là Lào, Campuchia, Trung Quốc, Cu Ba; thúc đẩy và khai thác hiệu quả quan hệ hợp tác với các đối tác lớn, quan trọng của Bộ Tư pháp; xây dựng kế hoạch tăng cường cử đại diện của Bộ Tư pháp tham gia/làm việc tại các tổ chức quốc tế mà Bộ Tư pháp đang được Chính phủ giao là cơ quan đầu mối quốc gia.
Ba là, chủ động tìm kiếm khả năng đàm phán các chương trình, dự án, phi dự án hợp tác mới hỗ trợ Bộ, Ngành Tư pháp phục vụ các lĩnh vực trọng tâm của Bộ, Ngành Tư pháp trong năm 2024 theo đúng định hướng của Đảng và quy định pháp luật có liên quan; điều phối, quản lý thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án, phi dự án của Bộ theo đúng quy định của pháp luật, trong đó tập trung thực hiện tốt công tác theo dõi, giám sát các hoạt động được thực hiện trong khuôn khổ của các chương trình, dự án, phi dự án hợp tác. Triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ về công tác đối ngoại nhân quyền.
Bốn là, tăng cường công tác thông tin đối ngoại góp phần duy trì hình ảnh, củng cố vị thế, quảng bá và nâng cao uy tín của Bộ, Ngành Tư pháp trong quan hệ hợp tác quốc tế.
11. Công tác xây dựng Ngành, đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học pháp lý
Một là, tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm, hiệu quả Kết luận số 40-KL/TW ngày 18/7/2022 của Bộ Chính trị về nâng cao hiệu quả công tác quản lý biên chế của hệ thống chính trị giai đoạn 2022 - 2026 và Kết luận số 28-KL/TW ngày 21/02/2023 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm các nhiệm vụ, giải pháp theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Kết luận số 50-KL/TW ngày 28/02/2023 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Kết luận số 62-KL/TW ngày 02/10/2023 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW. Tổ chức thực hiện có hiệu quả Quyết định số 2069/QĐ-TTg về Danh mục dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu thuộc Ngành Tư pháp; Quyết định số 2070/QĐ-TTg ngày 08/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ngành Tư pháp đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; phê duyệt vị trí việc làm theo quy định của Nghị định số 62/2020/NĐ-CP ngày 01/6/2020 của Chính phủ về vị trí việc làm và biên chế công chức; Nghị định số 106/2020/NĐ-CP ngày 10/9/2020 của Chính phủ về vị trí việc làm và số lượng người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập và văn bản hướng dẫn.
Hai là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng, phát triển nguồn nhân lực, thu hút, trọng dụng nhân tài; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; kiện toàn, sắp xếp, bố trí cán bộ theo vị trí việc làm và yêu cầu sắp xếp tổ chức bộ máy, nhất là đội ngũ cán bộ tư pháp cơ sở. Tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan thi hành án dân sự.
Ba là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức, nhất là đối với đội ngũ cán bộ tư pháp cơ sở và nguồn cán bộ chuyên gia trong các lĩnh vực quản lý của Ngành; thực hiện hiệu quả Đề án tổng thể “Tiếp tục xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật” và Đề án “Tiếp tục xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp” vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Bốn là, triển khai thực hiện hiệu quả Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế sau khi được Chính phủ ban hành.
Năm là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, nhất là tiếp tục nghiên cứu những chủ trương, định hướng lớn của Đảng, Quốc hội và chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Bộ, Ngành Tư pháp qua đó góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Bộ, Ngành Tư pháp; tiếp tục tham mưu thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 27-NQ/TW. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý khoa học và nghiên cứu khoa học.
12. Công tác báo chí, xuất bản
Công tác báo chí, xuất bản tiếp tục thực hiện nghiêm tôn chỉ, mục đích và bám sát chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhất là chỉ đạo của Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông liên quan đến công tác báo chí, xuất bản. Tăng cường, củng cố, phát huy vai trò công tác báo chí, tuyên truyền về các lĩnh vực công tác của Bộ, Ngành Tư pháp. Tiếp tục đổi mới nội dung và nâng cao chất lượng, hình thức các ấn phẩm, tin, bài… trên cơ sở bám sát nhiệm vụ chính trị của Bộ, Ngành Tư pháp, đồng thời, góp phần tuyên truyền, phổ biến pháp luật và đáp ứng nhu cầu của xã hội.
13. Công tác thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng
Một là, tiếp tục thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; tăng cường thanh tra, kiểm tra và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo đúng chỉ đạo của Đảng, quy định của pháp luật. Thực hiện tốt nhiệm vụ Bộ Tư pháp là thành viên Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Thực hiện đúng quy định về kê khai, công khai kê khai tài sản, thu nhập đối với cán bộ, công chức, viên chức của Bộ, Ngành Tư pháp theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018.
Hai là, tăng cường, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành, tập trung vào những lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực. Tăng cường công tác thanh tra đột xuất, thanh tra các cơ quan, tổ chức có dấu hiệu vi phạm pháp luật và lĩnh vực do Bộ, Ngành Tư pháp quản lý có nhiều bức xúc, dư luận xã hội quan tâm. Tăng cường chỉ đạo công tác tự kiểm tra của các cơ quan chuyên môn quản lý nhà nước về từng lĩnh vực.
Ba là, tiếp tục thực hiện nghiêm, hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo đúng quy định của Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo; tiếp tục triển khai Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tối cáo.
14. Công tác ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số
Một là, thực hiện nghiêm các nhiệm vụ, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số và ưu tiên bố trí nguồn lực, tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 22-NQ/BCSĐ ngày 29/3/2022 của Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp về tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác công nghệ thông tin trong hoạt động của Bộ, Ngành Tư pháp giai đoạn 2022 - 2025; Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển Chính phủ số và bảo đảm an toàn thông tin mạng trong hoạt động của Ngành Tư pháp giai đoạn 2021 - 2025; Kế hoạch chuyển đổi số Ngành Tư pháp giai đoạn 2020 - 2025, định hướng đến năm 2030.
Hai là, tiếp tục tập trung thực hiện các nhiệm vụ được giao tại Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030. Triển khai giải pháp thực hiện quy trình cấp phiếu lý lịch tư pháp trên ứng dụng VNeID tại Thừa - Thiên Huế; đánh giá và nhân rộng trên phạm vi toàn quốc.
Ba là, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các thủ tục chuẩn bị đầu tư; đầu tư đối với các dự án công nghệ thông tin sử dụng vốn đầu tư trung hạn của Bộ trong các lĩnh vực hộ tịch, trợ giúp pháp lý, phổ biến, giáo dục pháp luật, xử lý vi phạm hành chính.
Bốn là, tiếp tục vận hành, nâng cấp, mở rộng, phát triển và triển khai các Hệ thống thông tin, phần mềm ứng dụng, hoạt động chuyển đổi số trong lĩnh vực: Chỉ đạo điều hành, lý lịch tư pháp, thi hành án dân sự, đấu giá tài sản... Nghiên cứu, ứng dụng AI trong một số lĩnh vực quản lý của Bộ. Tiếp tục thực hiện việc kết nối, chia sẻ dữ liệu thông tin giữa Hệ thống thông tin với cơ sở dữ liệu do các bộ, ngành, cơ quan khác quản lý. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và ban hành các văn bản về quản lý, phát triển dữ liệu; kết nối, tích hợp, chia sẻ thông tin; mở dữ liệu theo quy định. Tiếp tục duy trì, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến của Bộ, Ngành Tư pháp trên Cổng dịch vụ công của Bộ, kết nối với Cổng dịch vụ công quốc gia. Tăng cường công tác bảo đảm an toàn, an ninh thông tin đối với cơ sở hạ tầng thông tin, các hệ thống thông tin phục vụ xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số và chuyển đổi số của Bộ, Ngành Tư pháp.
Năm là, tiếp tục duy trì, phát triển hạ tầng kỹ thuật của Bộ phục vụ công tác ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số của Bộ, Ngành cùng với việc phối hợp với các đơn vị trong và ngoài Bộ thực hiện bảo đảm an toàn an ninh cho các hệ thống thông tin của Bộ, Ngành.
Huyền Bùi
[1] Bài viết sử dụng tư liệu trong Tài liệu Hội nghị toàn quốc triển khai công tác tư pháp năm 2024 do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 25/12/2023 tại Hà Nội.
[2] Gồm: (i) Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2021 - 2025; (ii) Xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025; (iii) Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025 trên phạm vi toàn quốc.