Công ước Liên Hợp quốc về thỏa thuận quốc tế giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải tạo ra cơ sở pháp lý trước đây còn thiếu cho việc công nhận và thi hành các thỏa thuận quốc tế giải quyết tranh chấp thương mại thông qua hòa giải, tạo nền tảng pháp lý cho một phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn hiện đã phổ biến hỗ trợ được cho quan hệ kinh doanh lâu dài. Ở Việt Nam, chính sách của Đảng và Nhà nước về cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế đều có định hướng thúc đẩy các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại ngoài Tòa án, trong đó có hòa giải, nhằm giảm bớt áp lực cho hệ thống tư pháp, tăng hiệu quả giải quyết tranh chấp, đảm bảo quyền tiếp cận công lý, bảo vệ lợi ích chính đáng cho người dân và doanh nghiệp, phát triển môi trường đầu tư kinh doanh, mở rộng quan hệ thương mại với nước ngoài. Bài viết đưa ra một số đánh giá bước đầu về tác động, một số thuận lợi, khó khăn đối với Việt Nam khi gia nhập Công ước này.
Trong các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án, hòa giải ngày càng trở thành một phương thức hấp dẫn được các nhà đầu tư, kinh doanh lựa chọn trong bối cảnh quan hệ kinh doanh xuyên biên giới phát triển mạnh, đặc biệt khi việc công nhận và thi hành các thỏa thuận giải quyết tranh chấp là kết quả của hòa giải đã chính thức được điều chỉnh bởi một văn kiện pháp lý quốc tế đa phương - Công ước của Liên Hợp quốc về thỏa thuận quốc tế giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải (sau đây gọi là Công ước Singapore). Việc Công ước Singapore được 46 quốc gia ký cùng lúc tại Lễ ký kết năm 2019 đã cho thấy rõ xu hướng phát triển của phương thức giải quyết tranh chấp này hiện nay. Ở Việt Nam, Chính sách của Đảng và Nhà nước về cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế đều có định hướng thúc đẩy các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại ngoài Tòa án, trong đó có hòa giải, nhằm giảm bớt áp lực cho hệ thống tư pháp, tăng hiệu quả giải quyết tranh chấp, bảo đảm quyền tiếp cận công lý, bảo vệ lợi ích chính đáng cho người dân và doanh nghiệp, phát triển môi trường đầu tư kinh doanh, mở rộng quan hệ thương mại với nước ngoài. Với định hướng đó, Việt Nam cũng khó có thể đứng ngoài xu thế chung của thế giới là ký kết điều ước quốc tế để hỗ trợ cho phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế thông qua hòa giải được hiệu quả hơn. Tuy nhiên, tương tự các văn kiện quốc tế khác, việc gia nhập Công ước Singapore đòi hỏi phải được đánh giá toàn diện, đặc biệt là với một Công ước mới. Chính vì vậy, tại Quyết định số 1268/QĐ-TTg ngày 02/10/2019 về phê duyệt Đề án Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng và giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng phương thức trọng tài thương mại, hòa giải thương mại, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tư pháp chủ trì nghiên cứu, đánh giá khả năng Việt Nam gia nhập Công ước Liên Hợp quốc về thỏa thuận quốc tế giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải và các giải pháp thực thi Công ước. Bài viết này đưa ra một số đánh giá bước đầu về tác động, một số thuận lợi, khó khăn đối với Việt Nam khi gia nhập Công ước Singapore.
1. Một số lợi ích của việc tham gia Công ước Singapore đối với Việt Nam
Nhằm thúc đẩy sự phát triển của phương thức hòa giải thương mại trên thế giới tương tự như trọng tài, Ủy ban Liên Hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL) đã thông qua Công ước Singapore. Công ước Singapore tạo ra cơ sở pháp lý trước đây còn thiếu cho việc công nhận và thi hành các thỏa thuận quốc tế giải quyết tranh chấp thương mại thông qua hòa giải, tạo nền tảng pháp lý cho một phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn hiện đã phổ biến hỗ trợ được cho quan hệ kinh doanh lâu dài. Nếu gia nhập Công ước Singapore, Việt Nam cũng sẽ được hưởng những lợi ích mà Công ước Singapore mang lại, đáp ứng nhu cầu thực tiễn và các đòi hỏi cải cách thể chế. Cụ thể:
Một là, lợi ích đối với hòa giải thương mại tại Việt Nam
Bên cạnh những lợi ích nổi bật của hòa giải như tiết kiệm chi phí và thời gian, thủ tục mềm dẻo và thân thiện so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác, Công ước Singapore giúp bảo đảm việc thực thi các thỏa thuận quốc tế giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải. Khi gia nhập Công ước Singapore, thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại thông qua hòa giải của các hòa giải viên và các trung tâm hòa giải của Việt Nam sẽ được công nhận và thi hành tại các quốc gia thành viên. Việc tham gia Công ước một mặt mang đến vị thế cân bằng với các trung tâm hòa giải trên thế giới mà kết quả hòa giải thành của họ được thi hành tại các quốc gia khác nhờ vào cơ chế của Công ước Singapore, mặt khác, đem đến cơ hội cạnh tranh, tự hoàn thiện mình của các thiết chế hòa giải tại Việt Nam trên trường quốc tế. Sớm tham gia Công ước sẽ là một bước đón đầu hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp Việt Nam lựa chọn phương thức hòa giải cũng như của các trung tâm hòa giải Việt Nam muốn vươn mình ra thị trường thế giới.
Có thể thấy, việc gia nhập Công ước Singapore mang đến lợi thế cạnh tranh công bằng giữa các trung tâm hòa giải của Việt Nam với các trung tâm hòa giải quốc tế và thúc đẩy hòa giải thương mại tại Việt Nam.
Hai là, lợi ích đối với môi trường kinh doanh tại Việt Nam
Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh đã từ lâu trở thành chiến lược phát triển kinh tế của Chính phủ Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Một trong những giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh là thực hiện cải cách thể chế tạo ra điều kiện thuận lợi cho kinh doanh. Tham gia Công ước Singapore tạo ra cơ sở pháp lý quốc tế cho việc công nhận và thi hành các thỏa thuận giải quyết tranh chấp đạt được thông qua hòa giải. Vì thế, có nhiều phương thức giải quyết tranh chấp hơn, đặc biệt khi kết quả hòa giải được bảo đảm thi hành tại Việt Nam giúp các doanh nghiệp và nhà đầu tư yên tâm lựa chọn làm ăn với doanh nghiệp Việt Nam cũng như đầu tư tại Việt Nam.
Ba là, lợi ích đối với hệ thống pháp luật của Việt Nam
Đối với công nhận và thi hành thỏa thuận hòa giải thương mại trong nước, hệ thống pháp luật Việt Nam tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, việc công nhận và thi hành các thỏa thuận hòa giải thương mại quốc tế chưa được quy định, trong khi hòa giải là biện pháp giải quyết tranh chấp hiệu quả, được ưa thích trong các giao dịch thương mại quốc tế. Vì vậy, gia nhập Công ước Singapore cũng là “cú hích” để Việt Nam hoàn thiện pháp luật trong nước. Việc nghiên cứu toàn diện Công ước Singapore, đặc biệt là các vấn đề pháp lý mới đặt ra từ Công ước, kinh nghiệm lập pháp và thực tiễn quốc tế, soi chiếu vào pháp luật trong nước hiện nay sẽ cung cấp nguồn thông tin quan trọng hỗ trợ cho việc đề xuất xây dựng hành lang pháp lý cho hòa giải thương mại quốc tế và công nhận và cho thi hành thỏa thuận hòa giải thương mại quốc tế tại Việt Nam vừa đáp ứng các chuẩn mực pháp lý quốc tế, vừa phù hợp, thống nhất với điều kiện trong nước. Mặt khác, cùng với quá trình xây dựng các quy định cho thỏa thuận hòa giải quốc tế, hệ thống pháp luật về hòa giải thương mại trong nước nói chung cũng sẽ có cơ hội để nhìn ra những tồn tại, hạn chế cần tiếp tục hoàn thiện hơn.
Có thể thấy rằng, gia nhập Công ước Singapore sẽ đẩy mạnh hợp tác quốc tế về pháp luật, tạo dựng một khung pháp lý đầy đủ và hiệu quả hơn cho việc thu hút, bảo hộ hoạt động đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp trong nước hợp tác kinh doanh với doanh nghiệp nước ngoài. Nếu Việt Nam tham gia Công ước Singapore, cả doanh nghiệp nước ngoài và Việt Nam đều được hưởng lợi từ văn kiện pháp lý này trong việc bảo đảm thi hành các thỏa thuận giải quyết tranh chấp quốc tế đạt được thông qua hòa giải, củng cố vị thế cho hòa giải so với các phương thức giải quyết tranh chấp có tính đối kháng hơn. Áp lực cho các Tòa án của Việt Nam cũng được giảm bớt và các doanh nghiệp có thể tập trung vào hoạt động kinh doanh, duy trì danh tiếng và các mối quan hệ kinh doanh ngay cả khi có tranh chấp. Bên cạnh đó, là thành viên của UNCITRAL trong nhiệm kỳ 06 năm kể từ năm 2019[1], việc Việt Nam gia nhập một Công ước do UNCITRAL xây dựng và đề xuất cũng thể hiện vai trò tích cực trong công cuộc “thúc đẩy sự hài hòa và thống nhất từng bước pháp luật thương mại quốc tế”[2].
2. Thuận lợi và khó khăn khi Việt Nam gia nhập Công ước Singapore
2.1. Thuận lợi
Thứ nhất, về đường lối, chủ trương của Đảng: Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thể hiện đường lối lớn và cho thấy định hướng, quyết tâm chính trị của Việt Nam. Nắm bắt được xu thế phát triển kinh tế toàn cầu, chủ trương về việc phát triển các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế được ghi nhận tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”[3] và đặc biệt Điều 5 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24/02/2017 của Chính phủ về hòa giải thương mại (Nghị định số 22/2017/NĐ-CP), theo đó, Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp sử dụng hòa giải thương mại để giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thương mại và các tranh chấp khác mà pháp luật quy định được giải quyết bằng hòa giải thương mại.
Thứ hai, về sự tương thích của pháp luật Việt Nam với các quy định của Công ước Singapore: Nhiều quốc gia đã ký Công ước Singapore ngay cả khi hệ thống pháp luật của họ chưa có quy định thống nhất về hòa giải thương mại. Tuy nhiên, Việt Nam đã có văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này và có cơ chế để thi hành các thỏa thuận hòa giải thành. Đây là cơ sở vững chắc cho việc thực thi các nghĩa vụ theo Công ước Singapore khi Việt Nam trở thành thành viên và tạo thuận lợi cho việc hoàn thiện thêm cơ sở pháp lý trong nước.
Thứ ba, các trung tâm hòa giải của Việt Nam đang ngày càng đi vào chiều sâu, tự nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp, chủ động tiếp cận cơ hội hội nhập, cập nhật kiến thức mới. Sự lớn mạnh dần của các trung tâm hòa giải thương mại tại Việt Nam cũng là điều kiện thuận lợi để tham gia và thực thi Công ước Singapore. Dù số lượng vụ việc giải quyết chưa nhiều, nhưng giá trị tranh chấp thực sự ấn tượng (11 vụ việc xấp xỉ 964 tỷ đồng).
Thứ tư, sự hoàn thiện của hệ thống tư pháp, Tòa án: sau khi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 được ban hành, cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa án các cấp tại Việt Nam đã được cải thiện rất nhiều. Ngành Tòa án cũng có các chương trình phát triển đội ngũ thẩm phán, cán bộ nguồn có kiến thức, kỹ năng và ngoại ngữ để đáp ứng các yêu cầu hội nhập. Các thẩm phán cũng có kinh nghiệm trong thực thi các quy định của Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành các quyết định trọng tài nước ngoài (Công ước New York). Trong những năm gần đây, tỷ lệ công nhận phán quyết trọng tài nước ngoài đã được nâng cao hơn so với trước đây[4].
2.2. Khó khăn
Thứ nhất, Công ước Singapore mới ra đời có nhiều nội dung không quy định cụ thể mà để cho luật pháp quốc gia thành viên điều chỉnh, vì vậy, để thực thi Công ước Singapore, Việt Nam cần chuẩn bị thật tốt khuôn khổ pháp lý trong nước. Hơn nữa, số lượng các quốc gia tham gia Công ước Singapore còn hạn chế. Các cơ quan có thẩm quyền thường mong muốn một cơ chế đa phương hiệu quả trên cơ sở có nhiều nước thành viên, đặc biệt là các nước có quan hệ thương mại lớn của Việt Nam. Cũng do Công ước Singapore còn mới nên số lượng các quốc gia thực thi Công ước Singapore chưa nhiều, kinh nghiệm quốc tế chưa phong phú.
Thứ hai, mặc dù nhiều nội dung tương thích nhưng pháp luật Việt Nam vẫn còn những điểm khác biệt so với Công ước Singapore. Việc sửa đổi hệ thống pháp luật cũng đòi hỏi thời gian và tính toán kỹ lưỡng để bảo đảm thống nhất, đồng bộ. Hoạt động hòa giải thương mại ở Việt Nam vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng. Việc tổng kết Nghị định số 22/2017/NĐ-CP chưa được thực hiện, việc thống kê các vụ việc công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án chưa nằm trong số liệu thống kê Ngành Tòa án nên tình hình thực tiễn về hòa giải thương mại và công nhận thi hành các kết quả hòa giải thành tại Việt Nam vẫn chỉ là sự “chắp vá”, gom nhặt từ các nguồn thông tin rời rạc. Cần có một bức tranh toàn cảnh và một chiến lược hoàn thiện hơn như cách mà Singapore đã thực hiện để phát triển “ngành công nghiệp” giải quyết tranh chấp của họ. Công việc này khó có thể thực hiện trong ngày một ngày hai và cần sự nỗ lực của nhiều cấp, nhiều ngành.
Thứ ba, hệ thống Tòa án đã được cải thiện nhưng tính chuyên trách lại chưa cao, khó có thể tập trung phát triển đội ngũ thẩm phán giàu kinh nghiệm chuyên giải quyết các vụ việc có yếu tố nước ngoài nói chung, thi hành các thỏa thuận quốc tế đạt được thông qua hòa giải nói riêng. Đề xuất về việc giao cho các Tòa chuyên trách hoặc Tòa án tại 03 thành phố lớn Hà Nội, Hồ Chí Minh và Đà Nẵng để giải quyết các yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài không được chấp nhận trong quá trình sửa đổi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 cũng có thể sẽ tiếp tục xảy ra đối với lĩnh vực hòa giải.
3. Đánh giá, đề xuất
Có thể thấy rằng, với chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về thúc đẩy phương thức giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải là rất rõ ràng cùng với sự phát triển mạnh mẽ của quan hệ thương mại quốc tế của Việt Nam và nhu cầu thực tiễn, Việt Nam nên gia nhập Công ước Singapore. Tuy nhiên, với những khó khăn, thách thức như phân tích ở trên thì Việt Nam cần có kế hoạch tổng thể với lộ trình cho từng bước chuẩn bị để bảo đảm khi gia nhập, Việt Nam có đủ cơ sở pháp lý, điều kiện cơ sở vật chất và con người để có thể thực hiện đầy đủ và hiệu quả Công ước Singapore.
3.1. Về hoàn thiện thể chế
Hệ thống quy phạm pháp luật Việt Nam về hòa giải thương mại cần hoàn thiện để tránh chồng chéo, mâu thuẫn với nội dung Công ước Singapore và lấp đầy những khoảng trống pháp lý do Công ước Singapore trao thẩm quyền cho pháp luật của quốc gia thành viên.
Thứ nhất, xây dựng Luật Hòa giải thương mại, nâng các quy định của Nghị định số 22/2017/NĐ-CP thành luật và bổ sung quy định về hòa giải thương mại có yếu tố nước ngoài, công nhận kết quả hòa giải thương mại theo mô hình của Luật mẫu UNCITRAL có xem xét đến các yếu tố của pháp luật, văn hóa Việt Nam.
Thứ hai, rà soát tổng thể, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam liên quan như: Luật Thương mại, Luật Đất đai, Bộ luật Tố tụng dân sự... nhằm phát hiện ra những nội dung chưa phù hợp, chồng chéo, mâu thuẫn trong chính hệ thống pháp luật Việt Nam với Công ước Singapore hoặc với pháp luật và thông lệ quốc tế. Trên cơ sở đó, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật còn chứa các nội dung chưa phù hợp.
Thứ ba, nghiên cứu để xây dựng quy tắc hòa giải mẫu trên cơ sở tiếp cận các nội dung Quy tắc hòa giải mẫu của UNCITRAL, có chọn lọc phù hợp với bối cảnh và điều kiện kinh tế, xã hội và văn hóa của Việt Nam.
3.2. Về hoàn thiện thiết chế thực thi
Thứ nhất, xác định cơ quan đầu mối thực thi Nghị định số 22/2017/NĐ-CP. Công ước Singapore không quy định một cơ chế hợp tác giữa quốc gia thành viên mà quy định trách nhiệm của các quốc gia phải xem xét công nhận thỏa thuận hòa giải khi nhận được yêu cầu. Chính vì vậy, Công ước Singapore không yêu cầu việc chỉ định một cơ quan trung ương thực thi Công ước Singapore. Tuy vậy, để bảo đảm cho việc áp dụng Công ước Singapore một cách thống nhất, đồng thời quản lý, theo dõi hoạt động công nhận thỏa thuận quốc tế hòa giải thương mại, bảo đảm trong lĩnh vực công nhận thỏa thuận quốc tế hòa giải thương mại, nguyên tắc tôn trọng các cam kết quốc tế tuân thủ cần thiết phải giao cho một cơ quan đầu mối. Bộ Tư pháp có chức năng quản lý nhà nước trong hoạt động trọng tài, hòa giải, có nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng các văn bản pháp luật về trọng tài và hòa giải thương mại, đồng thời có kinh nghiệm là cơ quan đầu mối quốc gia trong thực hiện Công ước New York - Công ước có nhiều điểm chung với Công ước Singapore. Vì vậy, Bộ Tư pháp là cơ quan trung ương thực thi Công ước Singapore đáp ứng được mọi tiêu chí.
Thứ hai, giao một số Tòa án chuyên trách để xem xét công nhận thỏa thuận hòa giải tại một số thành phố lớn thuận lợi về cả nhu cầu công nhận và vị trí địa lý. Các Toà án sẽ là cơ quan giải quyết các yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thương mại thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước Singapore. Việc công nhận thỏa thuận hòa giải có tính quốc tế nên cần chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa hoạt động này thông qua việc chỉ giao cho một số Tòa án chuyên trách đảm nhiệm. Việc giao cho một số Tòa án chuyên trách cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc theo dõi, quản lý, đánh giá việc thực thi Công ước Singapore. Trên thực tế, việc giao chuyên trách cũng giúp cho việc tập trung đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn cũng như trình độ ngoại ngữ cho các thẩm phán có trọng tâm, không gây lãng phí nguồn lực.
Thứ ba, cần hình thành cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức liên quan Bộ Tư pháp - cơ quan quản lý nhà nước về hòa giải thương mại, Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án được giao thực hiện giải quyết yêu cầu công nhận thỏa thuận hòa giải tại Việt Nam để kịp thời xử lý, giải quyết những vấn đề phát sinh trong việc thực thi Công ước Singapore.
3.3. Tăng cường nhận thức, nâng cao năng lực
Thứ nhất, đẩy mạnh tuyên truyền, giới thiệu, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về lợi ích của việc hòa giải, về Công ước Singapore, qua đó, khuyến khích các doanh nghiệp lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp này, thúc đẩy hòa giải thương mại tại Việt Nam phát triển.
Thứ hai, các trung tâm hòa giải thương mại hiện nay giải quyết số lượng yêu cầu hòa giải thương mại còn rất hạn chế, dẫn đến thực tế các hòa giải viên không có cơ hội để thực hành, cọ sát nâng cao kỹ năng, chuyên môn hòa giải. Vì vậy, việc nâng cao năng lực cho các hòa giải viên cũng là tạo niềm tin cho các bên tranh chấp tìm đến lựa chọn phương thức hòa giải này. Đặc biệt, việc nâng cao năng lực cho hòa giải viên còn có ý nghĩa hơn khi một trong những yếu tố có thể dẫn đến không công nhận thỏa thuận hòa giải thương mại quốc tế theo Công ước Singapore có liên quan đến điều kiện, tiêu chuẩn về hòa giải viên (Điều 5.1.e Công ước Singapore). Thúc đẩy thành lập hiệp hội nghề hòa giải viên tạo “sân chơi” hiệu quả, bổ ích làm cầu nối giao lưu, học hỏi, hỗ trợ giữa các hòa giải viên.
Thứ ba, việc gia nhập Công ước Singapore yêu cầu Tòa án Việt Nam chuẩn bị sẵn nguồn lực cho việc tiếp nhận giải quyết các yêu cầu công nhận thỏa thuận hòa giải, nâng cao nhận thức của các thẩm phán, cán bộ Tòa án cũng như trang bị kiến thức về hòa giải thương mại quốc tế, công nhận thỏa thuận hòa giải thương mại quốc tế có vai trò hết sức quan trọng.
Có thể khẳng định, gia nhập Công ước là xu hướng tất yếu đối với Việt Nam. Tuy nhiên, để việc gia nhập được chủ động và có thể khai thác được tốt các lợi ích do Công ước Singapore mang lại thì Việt Nam cần có bước chuẩn toàn diện với lộ trình cụ thể. Tin rằng, với sự đồng thuận, quan tâm, ủng hộ và nỗ lực của các cấp, các ngành, các chủ thể có liên quan, Việt Nam sẽ sớm gia nhập Công ước Singapore.
Vụ trưởng Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp
Ảnh: ST
[1]. Quyết định của Đại hội đồng Liên Hợp quốc 73/412.
[2]. Nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp quốc 2205(XXI) ngày 17/12/1966 xác định mục tiêu của UNCITRAL.
[3]. Mục II.2.1 quy định một trong những nhiệm vụ cải cách tư pháp là “khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài”.
[4]. Đánh giá tại Báo cáo về khả năng áp dụng Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế tại Việt Nam do nhóm chuyên gia UNDP thực hiện.