Thứ bảy 07/06/2025 16:36
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Giải thích pháp luật ở một số quốc gia trên thế giới

Bài viết tập trung phân tích hoạt động giải thích pháp luật ở các quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc và Hoa Kỳ. Từ đó, đưa ra các nhận xét và đánh giá về hoạt động giải thích pháp luật ở các quốc gia này để tạo nguồn tham khảo cho việc đổi mới hoạt động giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay.

Giải thích pháp luật với mục đích làm cho các quy định pháp luật sáng tỏ về nội dung, giúp các chủ thể trong xã hội nhận thức một cách đúng đắn về các quy định pháp luật để có thể bảo vệ quyền và lợi ích của mình một cách tốt nhất. Không những có vai trò quan trọng đối với hoạt động pháp luật trên lý luận và thực tiễn, giải thích pháp luật còn có vai trò thúc đẩy kinh tế, chính trị, ngoại giao của quốc gia. Hiện nay, các quốc gia trên thế giới đều đẩy mạnh việc phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa ra khỏi phạm vi quốc gia mình. Những quy định pháp luật cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu là cơ sở chắc chắn để các nhà đầu tư nước ngoài, quốc gia khác có thể làm căn cứ bảo vệ quyền và lợi ích một cách hữu hiệu nhất. Vì vậy, có thể nói rằng, để phát triển các mặt khác thì hoạt động giải thích pháp luật là một yếu tố không thể bỏ qua.

1. Giải thích pháp luật ở Trung Quốc

Thứ nhất, về thể chế chính trị:

Không giống với các quốc gia như Anh, Pháp, Mỹ,… Trung Quốc là quốc gia theo định hướng xã hội chủ nghĩa nên không áp dụng nguyên tắc tam quyền phân lập để tổ chức bộ máy nhà nước mà ở Trung Quốc lại duy trì tính thống nhất, tập trung quyền lực vào một cơ quan làm đại diện cho nhân dân là Hội đồng nhân dân quốc gia. Hiến pháp năm 1982 quy định rằng cơ quan nhà nước có quyền lực cao nhất là Hội đồng nhân dân quốc gia và Hội đồng nhân dân địa phương[1]. Như vậy, Hội đồng nhân dân quốc gia là cơ quan có quyền lực vô hạn và tập trung, quyền hạn này làm cho Hội đồng nhân dân quốc gia của Trung Quốc khác biệt so với cơ quan lập pháp ở phương Tây.

Tuy nhiên, mặc dù là cơ quan nắm quyền lực cao nhất trong Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nhưng Hội đồng nhân dân quốc gia chỉ họp thường niên một lần/một năm hoặc khi có sự triệu tập của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hay hơn một phần năm số người trong Hội đồng nhân dân quốc gia đề xuất. Chính vì hoạt động của Hội đồng nhân dân quốc gia được thực hiện một cách không thường xuyên nên các công việc hàng ngày của Hội đồng nhân dân quốc gia được giải quyết bởi Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan cấp dưới của Hội đồng nhân dân quốc gia. Để củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động cho Hội đồng nhân dân quốc gia, quyền lực trước đây được trao cho Hội đồng nhân dân quốc gia sẽ được trao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội làm cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội có quyền lực rất lớn trong tổ chức bộ máy nhà nước.

Thứ hai, về chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật:

Hoạt động giải thích pháp luật ở Trung Quốc được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau và tùy thuộc vào các loại văn bản cần được giải thích thì được thực hiện bởi các chủ thể tương ứng. Căn cứ Điều 67 Hiến pháp năm 1982, ngoài giám sát Hiến pháp, ban hành, sửa đổi luật,… Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan có quyền lực cao nhất trong hoạt động giải thích Hiến pháp và luật pháp.

Ngoài ra, các chủ thể khác như Chính phủ nhân dân và Tòa án cũng có thẩm quyền giải thích pháp luật căn cứ theo Điều 7 Luật Tổ chức Chính phủ nhân dân Trung ương năm 2007: “Chính phủ nhân dân Trung ương có quyền ban hành và giải thích các luật nhà nước, ban hành các nghị định và giám sát kết quả thực thi các luật và nghị định này”; Điều 158 Luật Cơ sở quy định: “Tòa án cũng có thẩm quyền tự giải thích, khi xét xử các vụ án” và nếu Tòa án trong quá trình xét xử vụ án cần “giải thích các điều khoản của luật liên quan tới các vụ việc thuộc trách nhiệm của Chính phủ nhân dân Trung ương, hoặc liên quan tới quan hệ giữa Chính quyền nhân dân Trung ương, Đặc khu và nếu những giải thích đó có ảnh hưởng đến phán quyết của vụ án, Tòa án trước khi đưa ra phán quyết cuối cùng phải tìm một giải thích liên quan từ Ủy ban Thường vụ Quốc hội”. Như vậy, Hội đồng nhân dân quốc gia là cơ quan duy nhất có quyền duyệt lại và sửa đổi Hiến pháp, luật pháp còn Ủy ban Thường vụ Quốc hội có thẩm quyền cao nhất trong hoạt động giải thích, giám sát việc thực hiện Hiến pháp và luật pháp. Thẩm quyền tối cao trong hoạt động giải thích pháp luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội được thể hiện ở hai đặc điểm sau: (i) Cơ quan duy nhất có thẩm quyền giải thích Hiến pháp và các cơ quan giải thích pháp luật còn lại chỉ có quyền giải thích các văn bản áp dụng pháp luật chứ không phải giải thích luật như Ủy ban Thường vụ Quốc hội; (ii) Khi các văn bản giải thích pháp luật của các chủ thể khác mâu thuẫn với nhau hoặc trái với văn bản cần được giải thích thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ là cơ quan có thẩm quyền bãi bỏ và ban hành văn bản giải thích pháp luật mới.

Thứ ba, về hoạt động giải thích pháp luật:

Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền cao nhất trong hoạt động giải thích pháp luật, tuy nhiên, trên thực tế, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tiến hành rất ít hoạt động này, cụ thể: “Trong suốt 21 năm, từ năm 1954 tới năm 1975, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ tiến hành 8 lần giải thích pháp luật”[2], khi Hiến pháp năm 1982 trao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội thẩm quyền giải thích Hiến pháp một cách chính thức, làm đề cao vai trò và thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hơn nữa, nhưng cho đến nay, chỉ có 09 hoạt động giải thích pháp luật được tiến hành và chỉ liên quan đến các sự việc ở Hồng Kông và Ma Cao như giải thích về các cụm từ “các hóa đơn hoàn thuế” ngày 29/12/2005, “thẻ tín dụng” ngày 29/12/2004, các hoạt động giải thích pháp luật còn lại đều liên quan đến Bộ luật Hình sự năm 1997 như Điều 3, Điều 11, Điều 93, Điều 228,...

Không chỉ giới hạn trong số lần thực hiện hoạt động giải thích pháp luật, các văn bản giải thích pháp luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã tạo nên tranh cãi và vẫn có tình trạng lạm quyền dựa trên ranh giới không rõ ràng giữa việc giải thích pháp luật và bổ sung pháp luật, chẳng hạn như qua việc giải thích Điều 93 Bộ luật Hình sự năm 1997. Theo đó, trong quá trình giải thích Điều 93 về “công chức nhà nước” thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã bổ sung vào quy định không có trong văn bản quy định pháp luật về “công chức nhà nước”. Với cách giải thích này đã làm cho Điều 93 trở nên đầy đủ hơn nhưng nó cũng là nguyên nhân gây tranh cãi bởi Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thêm một nội dung mà bản thân quy định tại Điều 93 không đề cập tới. Đây là ví dụ cụ thể về hoạt động giải thích pháp luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khi vi phạm ranh giới giữa việc lập pháp và giải thích pháp luật. Ngoài ra, trong những lần giải thích pháp luật sau thì cũng có những tranh cãi khi việc giải thích của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tạo ra những nội dung mới mà quy định cần được giải thích không đề cập tới.

Thứ tư, về đánh giá về hoạt động giải thích pháp luật:

Về ưu điểm, Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan trực thuộc Hội đồng nhân dân quốc gia nên khi trao thẩm quyền này cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ phù hợp với nguyên tắc tập quyền mà Trung Quốc đang thực hiện và đảm bảo được tính thống nhất trong bộ máy nhà nước. Ngoài ra, Hội đồng nhân dân quốc gia là cơ quan ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội lại là một bộ phận của Hội đồng nhân dân quốc gia nên sẽ tránh được tình trạng mâu thuẫn giữa văn bản giải thích pháp luật và văn bản được giải thích.

Về hạn chế, Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan trực thuộc Hội đồng nhân dân quốc gia, thực hiện hầu hết các hoạt động của Hội đồng nhân dân quốc gia khi Hội đồng nhân dân quốc gia không họp nên có rất nhiều nhiệm vụ cần Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải quyết. Việc giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội thẩm quyền giải thích pháp luật liệu có nên hay không khi số thành viên của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tương đối nhỏ so với lượng công việc phải thực hiện? Hội đồng nhân dân quốc gia là cơ quan lập pháp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ là cơ quan thuộc Hội đồng nhân dân quốc gia nên để đề cao tính tối cao của pháp luật khi được ban hành thì nên giao thẩm quyền giải thích cho Hội đồng nhân dân quốc gia chứ không phải Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Những hạn chế về tính kịp thời phát hiện thiếu sót khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích pháp luật cũng có thể xảy ra, vì đây không phải là cơ quan áp dụng pháp luật trên thực tế nên khó phát hiện được mâu thuẫn cũng như “lỗ hổng” cần được giải thích hay “lấp đầy”.

2. Giải thích pháp luật ở Hàn Quốc

Thứ nhất, về thể chế chính trị:

Hàn Quốc là nước áp dụng học thuyết phân quyền một cách khá triệt để, quyền lực nhà nước được chia làm ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mỗi nhánh quyền lực được giao cho ba cơ quan khác nhau thực hiện. Ba nhánh quyền lực này kiềm chế và đối trọng nhau nhằm tạo ra tính khách quan cũng như công bằng trong các hoạt động của Nhà nước và xã hội. Đây là quốc gia tổ chức bộ máy nhà nước theo hình thức chính thể cộng hòa, cụ thể là cộng hòa tổng thống.

Thứ hai, về chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật:

Cũng như các quốc gia khác, để phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật của mình, hoạt động giải thích pháp luật tại Hàn Quốc rất được đề cao và chú trọng. Chính vì áp dụng học thuyết này mà thẩm quyền giải thích pháp luật tối cao được giao cho nhánh tư pháp.

Căn cứ Điều 101, Điều 107, Điều 111 của Hiến pháp thì Tòa Hiến pháp, Tòa thông thường có thẩm quyền giải thích đối với hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật trừ nghị quyết, thông báo, hướng dẫn, quy định chỉ do Bộ Tư pháp, cơ quan hành chính, Bộ Ban hành văn bản quy phạm pháp luật giải thích căn cứ theo Điều 26 Sắc lệnh của Tổng thống về ban hành các văn bản pháp quy. Tổng thống, Thủ tướng, các Bộ trưởng, cơ quan hành chính, Bộ Tư pháp, Bộ Ban hành văn bản quy phạm pháp luật giải thích các văn bản do mình ban hành căn cứ Điều 75, Điều 95 của Hiến pháp.

Nhìn chung, hoạt động giải thích pháp luật ở Hàn Quốc có hai đặc điểm nổi bật sau: (i) Thẩm quyền giải thích pháp luật được trao cho rất nhiều cơ quan tùy thuộc vào loại văn bản quy phạm pháp luật được ban hành bao gồm Tòa Hiến pháp, Tòa thông thường, Tổng thống, Thủ trưởng, các Bộ trưởng,… (ii) Thẩm quyền giải thích Hiến pháp, văn bản quy phạm có giá trị tối cao được trao cho cả Tòa Hiến pháp và Tòa thông thường cùng giải thích.

Thứ ba, về hoạt động giải thích pháp luật:

Năm 2004, Hàn Quốc đứng giữa cuộc tranh luận về tính hợp hiến của Luật về Thủ đô mới được ban hành năm 2002. Luật về Thủ đô mới quy định “chức năng điều hành Thủ đô sẽ được chuyển cho địa phương nhằm mục đích loại bỏ hiệu quả ngược của việc tập trung dân cư và sự đông dân quá mức ở vùng đô thị lớn” (Điều 1). Tòa án Hiến pháp đã xem xét vụ việc trên và đưa ra phán quyết Luật về Thủ đô mới là vi hiến vì đa số các thẩm phán (07/09) cho rằng Seoul có vị trí như Hiến pháp theo tập tục đề cập trong lịch sử từ năm 1392 qua các triều đại Chosun, dưới chế độ Nhật Bản, thành lập Nhà nước Cộng hòa Hàn Quốc cho đến nay. Điều 130 Hiến pháp quy định: “Đề xuất sửa đổi Hiến pháp sẽ được đưa ra trưng cầu dân ý không muộn hơn 30 ngày kể từ khi Quốc hội thông qua và sẽ được quyết định thông qua bởi hơn 50% số phiếu trả lời thu được từ hơn 50% trong tổng số người có đủ tư cách đi bầu cử Quốc hội”. Như vậy, Tòa án đã giải thích Điều 130 của Hiến pháp và cho rằng việc thay đổi vị trí Thủ đô mới như một việc sửa đổi Hiến pháp mặc dù có những ý kiến trái chiều của các thẩm phán khác. Việc giải thích Điều 130 Hiến pháp và tuyên Luật về Thủ đô mới là vi hiến đã thể hiện vị trí tối cao trong hoạt động giải thích pháp luật ở Hàn Quốc cũng như thể hiện sự chuyên môn của Tòa án trong hoạt động này.

Ngoài ra, khi các cơ quan khác nhau có cách giải thích khác nhau về một quy định pháp luật, giải thích của Tòa án Tối cao sẽ là văn bản có giá trị cuối cùng. Ví dụ, thuật ngữ “thay đổi trong sử dụng” quy định tại Điều 48 Luật Xây dựng được Nghị định thi hành Luật Xây dựng giải thích rằng, việc thay đổi tòa nhà phụ nhằm duy trì tòa nhà chính thì được coi là “thay đổi trong sử dụng”. Cơ quan hành chính tin tưởng và giải thích “tòa nhà phụ” là tòa nhà đi kèm độc lập hoặc một phần của tòa nhà được sử dụng phụ cho tòa nhà chính còn Tòa án Hành chính lại giải thích “tòa nhà phụ” chỉ bao gồm các tòa nhà không độc lập, có mục đích sử dụng cho tòa nhà chính và không tính đến một phần của tòa nhà chính. Sự mâu thuẫn này đã dẫn đến việc giải thích của Tòa án Tối cao, Tòa án Tối cao đồng tình với Tòa Hành chính và đưa ra sự giải thích của mình.

Như vậy, việc trao thẩm quyền giải thích pháp luật cho nhiều cơ quan ở Hàn Quốc ngoài những mặt tích cực như nhanh chóng, kịp thời, khách quan,… vẫn còn nhiều hạn chế cần phải xem xét.

Thứ tư, về đánh giá hoạt động giải thích pháp luật:

Từ những đặc điểm trên cũng như sự phân chia thẩm quyền giải thích pháp luật của Hàn Quốc có thể thấy được một số ưu điểm cũng như hạn chế của giải thích pháp luật ở Hàn Quốc.

Về ưu điểm thì việc giao thẩm quyền giải thích pháp luật cho nhiều cơ quan có thẩm quyền tùy theo loại văn bản cần được giải thích sẽ góp phần làm tăng tính hiệu quả của việc giải thích pháp luật. Khi phát sinh một quy định hay một văn bản cần được giải thích, cơ quan ban hành văn bản đó hoặc chủ thể áp dụng nó sẽ là người hiểu rõ cũng như phát hiện một cách nhanh chóng nhất, kịp thời nhất. Vì vậy, sẽ không có tình trạng hoạt động giải thích pháp luật bị chậm trễ hoặc sẽ tránh được tình trạng thiếu quy định pháp luật điều chỉnh. Ngoài ra, văn bản giải thích pháp luật của bất kỳ cơ quan nào cũng có thể được xem xét lại bởi cơ quan tư pháp mà Tòa án là một nhánh quyền lực độc lập so với nhánh lập pháp và hành pháp nên sẽ tránh được sự giải thích tùy tiện, không khách quan, góp phần bảo vệ được các chủ thể khác trong xã hội cũng như sự minh bạch của quy phạm pháp luật. Một ưu điểm có thể nhận thấy nữa đối với sự phân chia thẩm quyền giải thích pháp luật ở Hàn Quốc là sẽ không bị chồng chất trách triệm đối với một cơ quan nào khi thực hiện giải thích pháp luật, vì nó được phân chia một cách cụ thể và được quy định một cách rõ ràng trong Hiến pháp cũng như các văn bản quy phạm pháp luật.

Tuy nhiên, về nhược điểm thì văn bản quy phạm pháp luật khi cần được giải thích sẽ có thể thuộc thẩm quyền của nhiều cơ quan, dễ dẫn đến tình trạng bị chồng chéo thẩm quyền hoặc tạo ra sự mâu thuẫn giữa các văn bản giải thích pháp luật khi các cơ quan này cùng tiến hành giải thích một quy định nào đó. Việc trao thẩm quyền giải thích cho cả cơ quan hành pháp và lập pháp ngoài góp phần làm tăng hiệu quả của việc giải thích pháp luật cũng khó tránh khỏi tình trạng thiếu khách quan của văn bản giải thích pháp luật. Vì theo một lẽ tự nhiên, khi thực hiện một hoạt động ảnh hưởng đến quyền lợi của mình, các cơ quan lập pháp và hành pháp dễ có thể tiến hành hoạt động giải thích pháp luật theo hướng có lợi cho mình, vì đây là hai cơ quan có sự liên hệ mật thiết đối với văn bản cần được giải thích.

3. Giải thích pháp luật ở Hoa Kỳ

Thứ nhất, về thể chế chính trị và lịch sử về vai trò giải thích pháp luật của Tòa án

Hoa Kỳ là một trong những quốc gia theo hệ thống thông luật nên các văn bản luật của Hoa Kỳ được ban hành bởi Nghị viện là rất hạn chế mà chủ yếu là các luật được ban hành bởi thẩm phán khi án lệ được hệ thống và nâng lên thành luật. Không giống Anh, ngay từ khi ra đời, Hoa Kỳ đã rất coi trọng luật thành văn và việc áp dụng án lệ của Hoa Kỳ cũng mềm dẻo, linh hoạt hơn. Hiến pháp năm 1787 là văn kiện pháp lý có tính chất tối cao, đây có thể coi là bản Hiến pháp đầu tiên và là bản Hiến pháp nổi tiếng nhất trong lịch sử với trên 200 năm tồn tại và được áp dụng một cách triệt để nhất. Vì tính tối cao của Hiến pháp nên các bản án hay hoạt động của các cơ quan nhà nước đều phải tuân theo và chịu sự chi phối của nó. Chính vì lý do trên, một phần án lệ của Hoa Kỳ cũng là sản phẩm của hoạt động giải thích pháp luật khi nó không tạo ra quy định mới mà chỉ nhằm giải thích cụ thể nội dung của Hiến pháp, văn bản pháp luật.

Không giống các quốc gia khác trên thế giới, Hoa Kỳ không đề cập đến hoạt động giải thích pháp luật cũng như không chú trọng đến hoạt động này mà nó chỉ được nhắc đến đối với việc giải thích Hiến pháp của Tòa án Tối cao qua bản án nổi tiếng Marbury kiện Madison (1803) của Chánh án Marshall, ông đã tuyên bố “trách nhiệm và bổn phận chính của cơ quan tư pháp là giải thích luật” và kết luận rằng, bổn phận đó thậm chí bao hàm quyền của các Tòa án được bác bỏ các đạo luật của Quốc hội nếu những đạo luật này bị phát hiện trái với Hiến pháp. Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động giải thích pháp luật vẫn diễn ra thường xuyên ở Hoa Kỳ và diễn ra khá mạnh mẽ với sản phẩm có một tên gọi khác là “án lệ” hay đúng hơn là các bản án của Tòa án sau khi dựa vào quy định pháp luật để giải quyết vụ việc trên thực tế. Những bản án đó thiết nghĩ cũng là văn bản giải thích pháp luật giống với các nước khác trên thế giới vì nó cũng dựa trên Hiến pháp, luật để làm rõ nội dung Hiến pháp, luật mà không tạo ra quy định mới, chỉ có điều có tên gọi khác và có thể được nâng lên thành luật.

Thứ hai, về chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật:

Tòa án là cơ quan có thẩm quyền tuyệt đối trong hoạt động pháp luật và công việc hàng ngày của các Tòa án trên toàn Hoa Kỳ là đưa ra các quyết định ảnh hưởng đến số phận của hàng ngàn người. Một số quyết định chỉ ảnh hưởng đến các bên liên quan trực tiếp đến một hành vi pháp lý nào đó, nhưng nhiều quyết định đưa ra các phán quyết về quyền, lợi ích và nguyên tắc pháp lý tác động đến hầu như tất cả người dân Mỹ. Do đó, mỗi phán quyết chắc chắn sẽ được nhiều người Mỹ chào đón, trong khi lại bị nhiều người khác phản đối; đôi khi số người phản đối còn nhiều hơn số người ủng hộ. Tuy nhiên, tất cả đều phải thừa nhận tính pháp lý của các quyết định này, cũng như phải thừa nhận vai trò của Tòa án là người giải thích luật pháp cuối cùng. Vì vậy, ở Hoa Kỳ, thẩm quyền giải thích pháp luật được trao cho Tòa án như một lẽ tự nhiên.

Thứ ba, về hoạt động giải thích pháp luật:

Khi có tranh chấp xảy ra, Tòa án cần phải dựa vào luật thành văn để giải quyết vụ việc. Tuy nhiên, vì số lượng luật thành văn của Hoa Kỳ khá ít và cũng như các quốc gia khác, các văn bản quy phạm pháp luật của Hoa Kỳ cũng mang tính khái quát khá cao nên Tòa án phải tiến hành giải thích để có thể giải quyết tranh chấp trên thực tế. Trên toàn Hoa Kỳ, các Tòa án liên bang, bang và địa phương vẫn không ngừng diễn giải luật pháp, giải quyết tranh chấp theo luật pháp và thậm chí đôi lúc còn hủy bỏ luật nếu như luật vi phạm những quyền hiến định. Sau khi tiến hành hoạt động này, các Tòa án cấp trên tạo ra một quy tắc và ràng buộc cách giải thích luật của mình đối với các Tòa án cấp thấp hơn. Đây được gọi là nguyên tắc “theo quyết định trước”, hay đơn giản gọi là tiền lệ. Nó giúp bảo đảm sự nhất quán và có thể lường trước. Ví dụ: Tu chính án Hiến pháp thứ mười lăm có một quy định là “trong bất kỳ vụ án hình sự nào, không ai bị buộc phải làm chứng chống lại mình”. Thỉnh thoảng lại có các vụ án trong đó một cá nhân từ chối trả lời các câu hỏi hoặc khai nhận dưới hình thức khác, trên cơ sở lập luận rằng lời khai đó có thể sẽ được dùng làm cơ sở khởi tố cá nhân này ở một nước khác. Có thể áp dụng điều luật tự buộc tội trong trường hợp này hay không? Tòa phúc thẩm địa phận số 2 cho rằng có thể áp dụng, nhưng Tòa phúc thẩm các địa phận số 4 và 11 lại diễn giải ngược lại. Điều đó có nghĩa là, luật pháp khác nhau phụ thuộc nơi mà vụ việc đó phát sinh. Lúc này, Tòa án Tối cao đã phán quyết rằng sợ bị truy tố ở nước ngoài là vượt quá phạm vi của điều luật tự buộc tội. Phán quyết này trở thành luật của toàn Hoa Kỳ, kể cả ở khu vực Tòa phúc thẩm địa phận số 2. Bất kỳ Tòa án liên bang nào sau này gặp phải vấn đề đó đều bị ràng buộc bởi phán quyết của Tòa cấp cao trong vụ án trên.

Thứ tư, về đánh giá hoạt động giải thích pháp luật:

Về ưu điểm thì việc xem các bản án khi tiến hành giải thích một quy định pháp luật nào đó mà không tạo ra quy định cũng là sản phẩm của hoạt động giải thích pháp luật và thẩm quyền giải thích pháp luật thuộc Tòa án làm cho hoạt động giải thích pháp luật trở nên vô cùng có hiệu quả về số lượng cũng như chất lượng. Xét cho cùng thì Tòa án ở Mỹ là cơ quan chuyên xét xử và so với các quốc gia khác, tầm nhận thức và áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước cũng như công dân rất cao,... nên khi Tòa án tiến hành giải thích pháp luật sẽ đáp ứng được nhu cầu của người dân trong thực tế và việc giải thích này cũng sẽ gần gũi, chính xác hơn bởi tính chuyên môn của Tòa án trong việc xét xử. Ngoài ra, có thể nhận thấy, số lượng luật thành văn của Hoa Kỳ không nhiều và án lệ cũng được xem là một nguồn của pháp luật nên việc giải thích pháp luật của Tòa án làm cho quy định của pháp luật Hoa Kỳ gần với thực tiễn hơn và hoàn thiện hệ thống pháp luật hơn.

Về điểm hạn chế, hệ thống pháp luật Hoa Kỳ khá phức tạp, gồm luật liên bang, luật bang, Hiến pháp liên bang, hiến pháp của bang, cũng như Tòa án của liên bang, Tòa án bang,… làm cho hoạt động giải thích pháp luật (tạo ra án lệ) được tiến hành bởi nhiều Tòa án khác nhau đối với một số vụ việc có tính chất giống nhau nên đôi khi các Tòa án diễn giải luật không giống nhau dễ làm cho quy định pháp luật trở nên càng khó hiểu. Với tình trạng đó, các Tòa án cấp cao hơn phải tìm cách giải quyết sự thiếu nhất quán này bằng cách Tòa án Tối cao thường chọn xét xử các vụ án nếu phán quyết của vụ đó có thể giải quyết sự bất đồng giữa các Tòa phúc thẩm. Tiền lệ của Tòa án Tối cao sẽ khống chế hoặc áp dụng cho tất cả các Tòa án liên bang cấp dưới.

Tóm lại, giải thích pháp luật với vai trò đối với việc hoàn thiện hoạt động pháp luật quốc gia, bảo vệ quyền, lợi ích công dân,… là một nhu cầu tất yếu đối với mọi quốc gia trên thế giới nên nó cần phải được quan tâm và phát triển. Để đảm bảo giải thích pháp luật được thực hiện một cách hiệu quả, văn bản giải thích pháp luật có thể phát huy được vai trò của mình, khi tiến hành giải thích pháp luật, các chủ thể giải thích pháp luật cần phải tuân thủ các nguyên tắc của hoạt động này cũng như lựa chọn phương pháp một cách cẩn trọng và cân nhắc. Bên cạnh đó, với tình hình kinh tế và chính trị khác nhau của mỗi quốc gia, hoạt động giải thích pháp luật của mỗi quốc gia cũng sẽ có những điểm không tương đồng nhất định về cơ quan có thẩm quyền giải thích pháp luật, chủ thể có quyền đề nghị giải thích pháp luật, quy trình,... Vì vậy, khi học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia khác về giải thích pháp luật, quốc gia đang quan tâm và phát triển hoạt động này cần “chắt lọc” một cách cẩn thận để áp dụng vào quốc gia mình một cách hợp lý vì mỗi hình thức nhà nước sẽ có một mô hình giải thích pháp luật, quy trình áp dụng riêng cũng như có những ưu, nhược điểm riêng.

Nguyễn Thanh Quyên

Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh

Tài liệu tham khảo

1. Ann Seidman, Robert B. Seidman, Nalin Abeyesekere (2003), Soạn thảo luật pháp vì tiến bộ xã hội dân chủ, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

2. Ann Seidman, Robert Seidman, Nalin Abeysekere (2004), Xem xét dự án luật: Cẩm nang cho các nhà lập pháp, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

3. Chen Sixi, Wo Guo De Fa Lu Jie Shi (2007), Giải thích pháp luật Trung Quốc, bài viết tham dự Hội thảo Luật Cơ sở của Hồng Kông: Mười năm đầu tiên và tương lai của nó, tham luận tại Hội thảo về giải thích pháp luật của Văn phòng Quốc hội tháng 02/2008, Hà Nội.

4. Cai Dingjian, Ren Da Yan Jiu, Zhong Guo Yi Hui (1995), Bàn về lập pháp Trung Quốc, Hong Kong Hai Yang Pres, Hong Kong.

5. Tô Văn Hòa (2009), Giải thích pháp luật - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Hồng Đức.

6. Nguyễn Thúy Hà (2006), Giải thích pháp luật ở các nước theo hệ thống thông luật, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (5).

7. Lê Hồng Hạnh (2008), Giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh: Tìm mục đích đích thực của văn bản quy phạm pháp luật và ý chí của các nhà lập pháp, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (9).

8. René David (1999), Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

9. Bùi Ngọc Sơn (2005), Góp phần nghiên cứu Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

10. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật so sánh, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội.


[1] Theo Hiến pháp Trung Quốc năm 1982 (Điều 2 và Điều 3), “sự phân chia chức năng và quyền lực giữa cơ quan nhà nước cấp trung ương và địa phương tuân theo nguyên tắc trao toàn quyền chủ động và nhiệt tình cho chính quyền địa phương dưới sự lãnh đạo thống nhất của chính quyền trung ương”. Hội đồng nhân dân địa phương làm việc dưới sự lãnh đạo của Hội đồng nhân dân quốc gia. Do đó, Hội đồng nhân dân quốc gia có thể được coi là cơ quan quyền lực cao nhất.

[2] Geogre G.Zheng, “Giải thích pháp luật thông qua cân nhắc về chính trị - Nghiên cứu trường hợp của Trung Quốc”, Giải thích pháp luật. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn - Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế tại Hà Nội, tháng 02/2008 (2009).

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Xử lý hành vi sử dụng mã độc tống tiền theo pháp luật hình sự - Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Xử lý hành vi sử dụng mã độc tống tiền theo pháp luật hình sự - Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Hiện nay, các tội phạm sử dụng công nghệ cao để thực hiện các hành vi phạm tội diễn ra ngày càng phổ biến. Một trong những công nghệ cao để thực hiện các hành vi phạm tội, nguy hiểm, gây ra thiệt hại lớn cho xã hội được các tội phạm sử dụng nhiều nhất, chính là sử dụng mã độc tống tiền (Ransomware). Vì vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật để kịp thời phòng, chống những tác hại của Ransomware là thực sự cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Bài viết nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật của Hoa Kỳ và Trung Quốc, từ đó, kiến nghị, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Pháp luật về hòa giải thương mại của Việt Nam và Ấn Độ - Góc nhìn so sánh và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Việt Nam và Ấn Độ đều có khung pháp lý điều chỉnh hoạt động hòa giải thương mại, nhưng có sự khác biệt đáng kể về cơ chế vận hành và thực thi. Bài viết sử dụng phương pháp so sánh luật học để phân tích và đối chiếu quy định pháp luật giữa hai quốc gia, đồng thời, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp luật về hòa giải thương mại tại Việt Nam.

Vai trò của Nội các Nhật Bản trong hoạt động lập pháp và giá trị tham khảo cho Việt Nam

Nội các Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong quá trình lập pháp với quyền đề xuất hầu hết các dự thảo luật trình lên Quốc hội. Bài viết nghiên cứu, phân tích vị trí, vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của Nội các Nhật Bản trong hoạt động lập pháp, từ sáng kiến đến soạn thảo, đánh giá và thông qua luật. Đồng thời, so sánh với quy trình lập pháp tại Việt Nam, chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt quan trọng. Từ đó, đề xuất các giá trị mà Việt Nam có thể tham khảo nhằm nâng cao vị trí và vai trò của Chính phủ trong quá trình xây dựng pháp luật.

Hình phạt tiền - Dưới góc nhìn so sánh pháp luật hình sự Việt Nam với Liên bang Úc và kinh nghiệm cho Việt Nam

Hình phạt tiền ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong hệ thống hình phạt của nhiều quốc gia, kể cả Việt Nam và Liên bang Úc, như một biện pháp hiệu quả để xử lý các hành vi phạm tội, đặc biệt là các tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm do pháp nhân thực hiện. Bài viết phân tích quy định pháp luật hình sự về hình phạt tiền của Việt Nam và Liên bang Úc, làm rõ sự khác biệt về đối tượng pháp nhân chịu trách nhiệm, phương pháp xác định mức phạt, các yếu tố Tòa án cân nhắc và cơ chế thi hành; từ đó, rút ra một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo đối với Việt Nam.

Kết đôi dân sự theo pháp luật của Pháp và gợi mở quy chế pháp lý cho cặp đôi không muốn kết hôn tại Việt Nam

Trên thế giới, nhiều quốc gia đã ghi nhận và thiết lập quy định liên quan đến vấn đề chung sống như vợ chồng, bởi đây là hiện tượng khách quan và phổ biến trong xã hội. Bộ luật Dân sự Pháp đã thiết kế chế định kết đôi dân sự để điều chỉnh mối quan hệ giữa các cặp đôi chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn. Bài viết phân tích chế định kết đôi dân sự ở Pháp, thực trạng chung sống như vợ chồng ở Việt Nam và gợi mở về một số thay đổi của chính sách, pháp luật hôn nhân và gia đình tại Việt Nam.
Kiện phái sinh theo pháp luật của Vương quốc Anh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam[1]

Kiện phái sinh theo pháp luật của Vương quốc Anh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam[1]

Kiện phái sinh là một cơ chế pháp lý quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của cổ đông và công ty. Hình thức kiện này đã hình thành từ rất lâu tại Anh và được xây dựng dựa trên nền tảng thông luật. Ở Việt Nam, kiện phái sinh mới chỉ được ghi nhận thông qua các quy định pháp luật trong thời gian gần đây. Bài viết phân tích các quy định pháp lý về hình thức kiện phái sinh tại Vương quốc Anh, đánh giá những ưu điểm, hạn chế của cơ chế này, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện cơ chế kiện phái sinh, phù hợp với tình hình thực tiễn tại Việt Nam.

Xây dựng mô hình Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ tại Việt Nam - Kinh nghiệm từ Nhật Bản và Vương quốc Anh

Bài viết so sánh mô hình Tòa Thượng thẩm sở hữu trí tuệ chuyên sâu Nhật Bản và hệ thống Tòa án sở hữu trí tuệ xét xử linh hoạt ở Anh, từ đó, rút ra khuyến nghị cho Việt Nam, đề xuất thành lập Tòa án chuyên biệt về sở hữu trí tuệ tại các trung tâm kinh tế lớn, kết hợp mô hình xét xử phù hợp để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả.

Thuế carbon và cơ chế điều chỉnh biên giới carbon - Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý khung pháp lý cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada trong thiết kế và thực thi chính sách định giá carbon, đồng thời, chỉ ra những khoảng trống của pháp luật Việt Nam, đặc biệt, về Hệ thống đo lường, giám sát phát thải và Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon. Trên cơ sở đó, đề xuất lộ trình xây dựng luật thuế carbon, tích hợp Hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định, Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon nội địa và quy trình quản lý thuế minh bạch, giúp Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, bảo vệ doanh nghiệp và thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ - Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu về trí tuệ nhân tạo (AI), sự cần thiết ứng dụng AI trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) nhìn từ kinh nghiệm của một số quốc gia, khu vực dẫn đầu trong việc ứng dụng AI vào bảo hộ quyền SHTT như Hoa Kỳ, châu Âu, Trung Quốc… từ đó, nghiên cứu đưa ra một số gợi mở cho việc ứng dụng AI trong việc hoàn thiện pháp luật liên quan đến việc ứng dụng AI vào hoạt động bảo hộ quyền SHTT.

Chuẩn hợp đồng (Quasi contract) - Cơ sở pháp lý và đề xuất áp dụng tại Việt Nam

Bài viết phân tích khái niệm chuẩn hợp đồng (Quasi contract) trong hệ thống pháp luật Common Law và sự tương đồng với một số quy định trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, đồng thời đề xuất việc nghiên cứu lựa chọn có chọn lọc và áp dụng Quasi contract vào hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp và bảo vệ quyền lợi các bên.

Bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo - Nhìn từ thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết phân tích chính sách bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư liên quan đến trí tuệ nhân tạo (AI) ở một số quốc gia trên thế giới, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam về vấn đề này.

Cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả của bên thứ ba tại Hoa Kỳ và kinh nghiệm cho Việt Nam

Bài viết phân tích cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả của bên thứ ba (cơ chế Safe Harbor) trong luật pháp Hoa Kỳ và Việt Nam, từ đó, đưa ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật liên quan đến các trường hợp miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet.

Xây dựng luật thuế các-bon - Kinh nghiệm Singapore và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Thuế các-bon là một công cụ tài chính quan trọng nhằm giảm phát thải khí nhà kính bằng cách định giá lượng khí CO₂ thải ra môi trường. Việc áp dụng thuế này không chỉ giúp kiểm soát ô nhiễm mà còn tạo nguồn thu để đầu tư vào các giải pháp phát triển bền vững. Trong bối cảnh đã có nhiều quốc gia xây dựng, ban hành và áp dụng thuế các-bon, Việt Nam cần cân nhắc xây dựng khung pháp lý phù hợp cho việc áp dụng thuế các-bon trong nước. Singapore là một trong những quốc gia đi đầu ở Đông Nam Á trong xây dựng, áp dụng pháp luật về thuế các-bon với nhiều điểm nổi bật mà Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc, phù hợp với thực tế của Việt nam. Xuất phát từ đó, bài viết làm rõ một số kinh nghiệm nổi bật của Singapore về xây dựng Luật thuế các-bon, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

Xác định tình trạng việc làm của người làm việc thông qua nền tảng công nghệ theo Chỉ thị (EU) 2024/2831 và khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích quy định về xác định tình trạng việc làm của người làm việc thông qua nền tảng công nghệ theo Chỉ thị (EU) 2024/2831 ngày 23/10/2024 của Nghị viện và Hội đồng châu Âu về việc cải thiện điều kiện làm việc đối với công việc nền tảng (Chỉ thị (EU) 2024/2831) và thực trạng xác định tình trạng lao động tại Việt Nam hiện nay, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

Miễn trừ thông báo tập trung kinh tế - Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Tập trung kinh tế là quá trình giảm số lượng doanh nghiệp độc lập trên thị trường thông qua sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh nhằm mở rộng quy mô và nâng cao khả năng cạnh tranh. Hành vi này giúp tối ưu nguồn lực nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ hạn chế cạnh tranh, dẫn đến độc quyền, ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường và người tiêu dùng. Pháp luật cạnh tranh của Mỹ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản kiểm soát tập trung kinh tế qua quy định về thông báo giao dịch và các trường hợp miễn trừ thông báo đối với hành vi tập trung kinh tế ít tác động đến thị trường. Từ kinh nghiệm của những quốc gia này về các trường hợp được miễn thông báo tập trung kinh tế, nghiên cứu đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm