1. Vài nét khái quát về chất thải nguy hại và quản lý chất thải nguy hại
Chất thải nguy hại luôn là một trong những vấn đề gây ảnh hướng xấu tới môi trường mà con người dù ở bất cứ nơi đâu cũng phải tìm cách đối phó. Theo quy định tại khoản 13 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 thì: “Chất thải nguy hại là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, lây nhiễm, dễ cháy, dễ nổ, gây ăn mòn, gây ngộ độc hoặc có đặc tính nguy hại khác”. Định nghĩa này phù hợp với các định nghĩa về chất thải nguy hại của các hiệp định song phương, đa phương mà Việt Nam là thành viên, theo đó, đều cho thấy đặc tính gây nguy hại cho môi trường và sức khỏe cộng đồng của chất thải nguy hại.
Có rất nhiều nguồn phát sinh chất thải nguy hại, thực trạng này đã gây không ít khó khăn trong việc quản lý và phân loại. Không chỉ riêng các khu sản xuất mà mỗi cá nhân cũng cần ý thức được mối hiểm họa từ chất thải nguy hại, từ đó, có cách thức xử lý đúng cách. Hiện nay, các nguồn phát sinh chất thải nguy hại cơ bản bao gồm:
- Sản xuất công nghiệp: Khi nhu cầu tiêu dùng càng tăng cao, ngành công nghiệp ngày càng được mở rộng để đáp ứng những nhu cầu đó, vì thế, những chất nguy hại phát sinh trong quá trình sản xuất (chất tẩy, phẩm màu, xút, dầu mỡ, kim loại,...) ngày một nhiều và khó xử lý.
- Canh tác nông nghiệp: Ngành nông nghiệp phát triển cũng là lúc những sản phẩm như thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật, chất bảo quản,… được sử dụng ngày càng nhiều. Những hợp chất trên chứa nhiều kim loại nặng và chất nguy hại, gây nguy hiểm cho nguồn nước ngầm, tài nguyên đất.
- Dịch vụ khám chữa bệnh: Đây là một trong những nguồn phát sinh chất thải nguy hại lớn và khó quản lý. Tại các cơ sở khám chữa bệnh, hàng ngày đều phát sinh một lượng lớn rác thải y tế. Trong số đó, có nhiều chất thải độc hại từ phòng thí nghiệm, chất thải lây nhiễm từ kim tiêm, thiết bị phòng mổ,… Nhóm rác thải này nếu được trộn lẫn với rác sinh hoạt thông thường sẽ làm cho việc phân loại và xử lý chất nguy hại gặp rất nhiều khó khăn.
- Tiêu dùng dân dụng: Trong quá trình sinh hoạt, con người cũng vô tình thải ra môi trường một lượng chất thải nguy hại, gây ảnh hưởng đến sức khoẻ của chính mình. Các sản phẩm thường ngày như pin, túi nilon, mỹ phẩm, sơn… đều có chứa những chất độc hại (chì, thuỷ ngân, cadimi,…). Những sản phẩm này nếu không được xử lý đúng cách sẽ gây ra nhiều mối nguy hại cho môi trường sống.
Trước thực trạng xuất hiện nhiều nguồn chất thải nguy hại như trên, trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, các nhà làm luật đã liệt kê hàng loạt các hoạt động quản lý chất thải nguy hại theo một quy trình chặt chẽ, bao gồm các hoạt động liên quan đến lập hồ sơ, đăng ký, cấp phép xử lý chất thải nguy hại; phân loại, thu gom, lưu giữ trước khi xử lý chất thải nguy hại; vận chuyển chất thải nguy hại... Việc ban hành Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 được coi là một bước quan trọng hoàn thiện pháp luật về hoạt động quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
2. Thực trạng pháp luật về quản lý chất thải nguy hại
2.1. Các quy định của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại
Trước hết, có thể thấy, hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường đã có những bước phát triển mới, được thể hiện trước tiên bằng việc Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015 và thay thế Luật Bảo vệ môi trường năm 2005. Với mục tiêu phát triển môi trường bền vững, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã đề cập đến các vấn đề nóng đang đặt ra trong công tác bảo vệ môi trường hiện nay như: Vấn đề ứng phó với biển đổi khí hậu; thúc đẩy tăng trưởng xanh; xây dựng quy hoạch môi trường; bổ sung quy định nội dung quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường; cụ thể hóa trách nhiệm và quyền của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và cộng đồng dân cư trong bảo vệ môi trường...
Ngay sau khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 được thông qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan xây dựng trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các văn bản pháp lý hướng dẫn thi hành, kịp thời phục vụ công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Trong đó, phải kể đến các văn bản sau đây: Nghị định số 114/2014/NĐ-CP ngày 26/11/2014 của Chính phủ quy định về đối tượng, điều kiện được phép nhập khẩu, phá dỡ tàu biển đã qua sử dụng; Nghị định số 127/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định về điều kiện của tổ chức hoạt động quan trắc môi trường; Nghị định số 03/2015/NĐ-CP ngày 06/01/2015 của Chính phủ quy định về xác định thiệt hại đối với môi trường; Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường; Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường; Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 của Chính phủ quy định về quản lý chất thải và phế liệu; Nghị định số 60/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định một số điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực bảo vệ môi trường...
Ngoài ra, các bộ cũng đã ban hành các quy định hướng dẫn thi hành các nội dung như: Thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, xác lập kế hoạch bảo vệ môi trường, đề án bảo vệ môi trường, quản lý chất thải nguy hại, ký quỹ phục hồi môi trường trong khai thác khoảng sản, nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, bảo vệ môi trường khu kinh tế, khu công nghiệp,… Bên cạnh đó, hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường cũng được rà soát, sửa đổi và ban hành đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn.
Tại các địa phương, nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, chương trình, kế hoạch cũng đã được xây dựng và triển khai thực hiện, như các quy định về bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh, thành phố; kế hoạch bảo vệ môi trường hàng năm và 05 năm; quy hoạch mạng lưới quan trắc môi trường trên địa bàn tỉnh, thành phố,… Hầu hết các địa phương đã ban hành các văn bản cụ thể hóa các chính sách, chiến lược, kế hoạch và tổ chức thực hiện tại địa phương nhằm chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Qua nhiều năm, về công tác quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam, Nhà nước ta đã từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về quản lý chất thải nguy hại, từ các quy định của luật cho đến các văn bản dưới luật như: Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định riêng Mục 2 Chương IX về quản lý chất thải nguy hại; Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 của Chính phủ quy định riêng Chương II về quản lý chất thải nguy hại; Quy chế quản lý chất thải nguy hại (ban hành kèm theo Quyết định số 115/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ); Quyết định số 16/2015/QĐ-TTg ngày 22/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ về thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ (thay thế Quyết định số 50/2013/QĐ-TTg); Thông tư số 36/2015/TT-BTNMT ngày 30/6/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về quản lý chất thải nguy hại… Ngoài ra, Việt Nam cũng đã tham gia vào một số Công ước quốc tế về quản lý chất thải nguy hại như: Công ước Marpol (Việt Nam ký ngày 29/8/1991); Công ước Basel (Việt Nam phê chuẩn ngày 13/5/1995)…
Nội dung pháp luật về quản lý chất thải nguy hại bao gồm các quy định cụ thể từ việc thu gom, lưu giữ, vận chuyển đến việc xử lý và tiêu hủy chất thải nguy hại. Đồng thời, cũng quy định rõ trách nhiệm của các chủ thể liên quan đến chất thải nguy hại, từ các cơ quan quản lý nhà nước đến các tổ chức, cá nhân. Cụ thể:
- Chủ nguồn thải chất thải nguy hại phải lập hồ sơ về chất thải nguy hại và đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cấp tỉnh. Nếu các tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện về năng lực quản lý chất thải nguy hại thì được cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường có thẩm quyền cấp giấy phép, mã số hoạt động quản lý chất thải nguy hại (Điều 90 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014).
- Việc phân loại, thu gom, lưu giữ và xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường theo hai cách: Chủ nguồn thải chất thải nguy hại phải tổ chức phân loại, thu gom hoặc hợp đồng chuyển giao cho bên tiếp nhận quản lý chất thải thu gom chất thải nguy hại. Chất thải nguy hại phải được lưu giữ trong phương tiện, thiết bị chuyên dụng bảo đảm không tác động xấu đến con người và môi trường (Điều 91 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014).
- Việc xử lý chất thải nguy hại phải tiến hành bằng phương tiện, thiết bị chuyên dụng phù hợp và được ghi trong giấy phép xử lý chất thải nguy hại. Chất thải nguy hại được vận chuyển sang nước khác phải tuân thủ các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên (Điều 92 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014).
Do chất thải nguy hại thường có nguồn gốc phát sinh từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nên pháp luật môi trường đã có những quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc quản lý chất thải này. Cụ thể:
(i) Trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường: Quy định danh mục chất thải nguy hại và cấp phép xử lý chất thải nguy hại (khoản 3 Điều 90 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014); quy định trình tự, thủ tục cấp giấy phép xử lý chất thải nguy hại (Điều 10 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP) và trình tự, thủ tục cấp lại, điều chỉnh giấy phép xử lý chất thải nguy hại (Điều 11 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP).
(ii) Trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường: Thống nhất quản lý nhà nước về chất thải nguy hại trên phạm vi toàn quốc và ban hành một số quy định theo quy định của pháp luật; tổ chức quản lý, kiểm tra điều kiện, hoạt động và các hồ sơ, hợp đồng, báo cáo, chứng từ liên quan đến các chủ xử lý chất thải nguy hại; tổ chức xây dựng và vận hành hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia về chất thải nguy hại; tổ chức, hướng dẫn việc triển khai đăng ký chủ nguồn thải, kê khai chứng từ chất thải nguy hại và báo cáo quản lý chất thải nguy hại trực tuyến; tổ chức việc tăng cường sử dụng hệ thống thông tin hoặc thư điện tử để thông báo, hướng dẫn, trao đổi với tổ chức, cá nhân trong quá trình cấp giấy phép xử lý chất thải nguy hại; tổ chức thực hiện các nội dung về quản lý chất thải nguy hại phục vụ công tác lập và triển khai quy hoạch bảo vệ môi trường theo quy định tại Điều 94 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014.
(iii) Trách nhiệm của Sở Tài nguyên và Môi trường: Quản lý hoạt động và các hồ sơ, báo cáo, hợp đồng, chứng từ của các chủ nguồn thải chất thải nguy hại trong phạm vi địa phương mình (kể cả chủ nguồn thải được miễn thủ tục đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy hại); cập nhật cơ sở dữ liệu về chất thải nguy hại và triển khai đăng ký chủ nguồn thải, kê khai chứng từ chất thải nguy hại, báo cáo quản lý chất thải nguy hại trực tuyến tại địa phương; tăng cường sử dụng hệ thống thông tin hoặc thư điện tử trong quá trình đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy hại; báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ Tài nguyên và Môi trường về tình hình quản lý chất thải nguy hại, việc đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy hại, thời hạn của báo cáo trước ngày 31/3 của năm tiếp theo.
Với tư cách là phương tiện hàng đầu của quản lý nhà nước đối với chất thải nguy hại, pháp luật đã xác định địa vị pháp lý của các cá nhân, các tổ chức sản xuất, kinh doanh có liên quan đến lĩnh vực môi trường nói chung và chất thải nguy hại nói riêng, tạo hành lang pháp lý để các chủ thể này tham gia vào các quan hệ khai thác, sử dụng các thành phần môi trường. Cũng thông qua pháp luật, Nhà nước với vai trò là chủ thể quản lý tạo ra môi trường thuận lợi, tin cậy và chính thức cho các hoạt động quản lý chất thải nguy hại trong phạm vi cả nước nhằm kiểm soát tốt chất thải nguy hại ngay từ nguồn thải, đồng thời thực hiện tốt các bước trong quá trình quản lý chất thải nguy hại như thu gom, vận chuyển, quá cảnh, lưu giữ, xử lý và tiêu hủy chất thải nguy hại.
2.2. Một số hạn chế, vướng mắc của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại
Có thể nói, Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống văn bản pháp luật tương đối đầy đủ để thực hiện tốt công tác quản lý, xử lý chất thải nguy hại, trong đó, quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức tiến hành hoạt động liên quan đến quản lý chất thải nguy hại và các chế tài xử lý vi phạm. So với giai đoạn trước đây, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung và quản lý chất thải nói riêng đã được cụ thể hóa và quy định rõ ràng hơn, đáp ứng các yêu cầu về số lượng và mục đích sử dụng. Với hệ thống cơ sở pháp lý cơ bản hoàn chỉnh này, đã tạo động lực cho công tác quản lý chất thải nguy hại được thực hiện tốt nhiệm vụ trong thời gian tới. Đặc biệt, giải quyết được các điểm nóng về quản lý chất thải nguy hại như thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải, chủ nguồn thải chất thải có số lượng chất thải nguy hại phát sinh thấp hơn dưới 600kg/năm.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, hệ thống pháp luật liên quan đến chất thải nguy hại nói chung và quản lý chất thải nguy hại nói riêng vẫn còn những vướng mắc, hạn chế: Một số quy định của pháp luật liên quan đến quản lý chất thải nguy hại còn chung chung, trách nhiệm pháp lý đặt ra đối với chủ thể vi phạm còn thấp, dẫn đến tình hình vi phạm về quản lý chất thải nguy hại gia tăng. Cụ thể:
Thứ nhất, quy định về quá trình vận chuyển chất thải nguy hại: Vận chuyển chất thải nguy hại được hiểu là quá trình chuyên chở chất thải nguy hại từ nơi phát sinh đến nơi xử lý. Trên thực tế, vẫn còn tồn tại một số quy định của pháp luật liên quan đến vận chuyển chất thải nguy hại mang tính chung chung và chưa có tính khả thi như:
- Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP thì chủ xử lý chất thải nguy hại có trách nhiệm “ký hợp đồng thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải nguy hại với các chủ nguồn thải chất thải nguy hại trên địa bàn hoạt động được ghi trong giấy phép xử lý chất thải nguy hại; tiếp nhận, vận chuyển, xử lý số lượng, loại chất thải nguy hại bằng các phương tiện, hệ thống, thiết bị được phép theo đúng nội dung hợp đồng, chứng từ chất thải nguy hại và giấy phép xử lý chất thải nguy hại”.
Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 9 Thông tư số 36/2015/TT-BTNMT thì chủ xử lý chất thải nguy hại thực hiện biện pháp quản lý và chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với hoạt động của phương tiện vận chuyển không chính chủ trong quá trình vận chuyển chất thải nguy hại; báo cáo Tổng cục Môi trường về việc thay đổi nội dung, gia hạn hoặc chấm dứt hợp đồng bàn giao phương tiện vận chuyển không chính chủ trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày thực hiện việc thay đổi, gia hạn hoặc chấm dứt.
Như vậy, quy định về chủ xử lý chất thải về vận chuyển chất thải mới chỉ dừng lại ở việc “chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với hoạt động của phương tiện vận chuyển không chính chủ trong quá trình vận chuyển chất thải nguy hại”, nhưng còn chịu trách nhiệm như thế nào, hình thức ra sao thì hiện nay pháp luật vẫn chưa quy định rõ ràng.
- Theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Thông tư số 36/2015/TT-BTNMT thì “Phương tiện vận chuyển chất thải nguy hại phải có hệ thống định vị vệ tinh (GPS) được kết nối mạng thông tin trực tuyến để xác định vị trí và ghi lại hành trình vận chuyển chất thải nguy hại”. Việc quy định phương tiện vận chuyển chất thải nguy hại phải có hệ thống vệ tinh GPS chưa phù hợp với thực tế. Bởi lẽ, khái niệm “hệ thống định vị vệ tinh GPS” ở Việt Nam là một khái niệm còn khá xa lạ đối với các chủ thể tiến hành những hoạt động liên quan đến chất thải nguy hại; hoặc nếu có được trang bị đầy đủ hệ thống định vị (GPS) thì quy định này sẽ khó được thực hiện trên thực tế vì khi phương tiện đi đến những địa điểm không có kết nối mạng, hay mạng không ổn định sẽ không thể cập nhật và nắm bắt được chính xác quá trình vận chuyển chất thải nguy hại.
- Theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP thì “Các phương tiện, thiết bị thu gom, vận chuyển chất thải nguy hại phải đáp ứng yêu cầu kỹ thuật và quy trình quản lý theo quy định. Phương tiện vận chuyển chất thải nguy hại phải được ghi trong giấy phép xử lý chất thải nguy hại”. Tuy nhiên, như thế nào để được coi là đáp ứng yêu cầu kỹ thuật của các phương tiện, thiết bị thu gom, vận chuyển chất thải nguy hại thì đến nay, vẫn chưa được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật.
Thứ hai, quy định về xử lý vi phạm pháp luật về quản lý chất thải nguy hại: Để các quy định pháp luật về quản lý chất thải nguy hại được đưa vào áp dụng triệt để trên thực tế và thực hiện toàn diện trên phạm vi cả nước thì cần phải có những yếu tố như sự quản lý nhà nước, ý thức trách nhiệm của các chủ thể liên quan trực tiếp đến quản lý chất thải nguy hại và những yếu tố khác.
Hiện nay, chủ thể vi phạm pháp luật về quản lý chất thải nguy hại có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong đó, Nhà nước ta đã ban hành Nghị định số 179/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính chỉ mang tính chất răn đe, cảnh cáo nhằm mục đích hướng tới xử sự đúng đắn cho các chủ thể và áp dụng đối với những vi phạm nghiêm trọng. Ngày 18/11/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 155/2016/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường thay thế Nghị định số 179/2013/NĐ-CP và có hiệu lực từ ngày 01/02/2017, theo đó, Nghị định này đã tăng mức phạt xử phạt vi phạm hành chính phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay, nhằm mục đích giảm thiểu vi phạm về chất thải nguy hại.
Trách nhiệm hình sự là mức chế tài nặng nhất được đặt ra đối với các chủ thể vi phạm quy định mà Bộ luật Hình sự quy định. Lần đầu tiên, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại. Đây là bước tiến đột phá, quan trọng của pháp luật hình sự nước ta, mặc dù chỉ giới hạn trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại nhưng tạo cơ sở pháp lý để xử lý hình sự đối với những chủ thể này khi có những hoạt động có dấu hiệu tội phạm trong việc gây ô nhiễm môi trường. Về phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, theo Điều 76, pháp nhân chỉ phải chịu trách nhiệm đối với 31 tội danh thuộc hai nhóm tội phạm là các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về môi trường (trong đó, lại không quy định trách nhiệm pháp nhân đối với Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại tại Điều 236). So với Bộ luật Hình sự năm 2009 thì Điều 236 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định theo hướng cụ thể hóa số lượng chất thải nguy hại mà người phạm tội cho phép chôn, lấp, thải ra môi trường và quy định rõ tiêu chuẩn đánh giá về việc chôn, lấp, thải chất thải có chứa chất phóng xạ, gây nhiễm xạ môi trường thuộc nguồn phóng xạ loại có mức độ nguy hiểm dưới trung bình theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn bức xạ - phân nhóm và phân loại nguồn phóng xạ vượt quy chuẩn cho phép, làm căn cứ để xác định người có hành vi trên bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo tội này. Tuy nhiên, dù Bộ luật Hình sự năm 2015 đã thể hiện sự tiến bộ hơn, đó là quy định việc truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân thương mại trong giới hạn những tội phạm được quy định tại Điều 76 Bộ luật này, nhưng nếu chỉ quy định xử lý trách nhiệm hình sự đối cá nhân phạm tội theo quy định tại Điều 236 Bộ luật Hình sự năm 2015 là thiếu sót lớn, đáng lo ngại bởi trên thực tế pháp nhân chính là các chủ thể xả chất thải nguy hại ra môi trường nhiều nhất trong quá trình sản xuất, kinh doanh.
Bên cạnh những vướng mắc của pháp luật, nhìn chung, ở Việt Nam hiện nay, việc áp dụng các văn bản về bảo vệ môi trường nói chung và quản lý chất thải nguy hại nói riêng chưa được nhiều cơ sở quan tâm; việc tổ chức thực hiện của một số cấp chính quyền cho công tác bảo vệ môi trường trong giảm thiểu chất thải nguy hại còn thiếu quyết liệt, kinh phí cho công tác bảo vệ môi trường còn hạn chế. Bên cạnh đó, việc thanh tra, kiểm tra và phát hiện ra hành vi vi phạm quy định của pháp luật liên quan đến chất thải nguy hại còn yếu kém, hoặc có phát hiện ra hành vi vi phạm nhưng việc xử phạt còn quá nhẹ so với hành vi vi phạm, hoặc xử lý vi phạm không đáp ứng yếu tố kịp thời của thực tế cần xử lý ngay,… dẫn đến thực tế không mang tính phòng ngừa, tính răn đe đối với các cơ sở thu gom, lưu giữ, vận chuyển và xử lý chất thải nguy hại. Cùng với đó là nhận thức của cộng đồng về công tác bảo vệ môi trường và xử lý chất thải còn yếu kém. Người dân hầu như chưa nhận thức được tác hại của rác thải và sự ảnh hưởng của rác thải với sức khỏe, môi trường sống, ý thức bảo vệ môi trường chưa cao, coi quản lý chất thải là công việc của Nhà nước, pháp luật, chính vì vậy, tình trạng xả rác tràn lan, bừa bãi còn phổ biến và mức độ ngày càng nghiêm trọng.
3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả quản lý, xử lý chất thải nguy hại ở Việt Nam hiện nay
Bảo vệ môi trường để phát triển bền vững hiện nay đã trở thành một vấn đề sống còn của toàn nhân loại. Cùng với phát triển kinh tế, mức sinh hoạt của người dân ngày càng được nâng cao thì lượng chất thải nguy hại cũng tăng nhanh gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng môi trường và sức khoẻ con người. Vì vậy, để góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả quản lý, xử lý chất thải nguy hại ở Việt Nam hiện nay, tác giả đề xuất một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến quản lý, xử lý chất thải nguy hại như:
- Quy định cụ thể như thế nào là đáp ứng yêu cầu kỹ thuật của các phương tiện, thiết bị thu gom, về vận chuyển chất thải nguy hại; quy định cụ thể trách nhiệm của chủ xử lý chất thải nguy hại chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với hoạt động của phương tiện vận chuyển không chính chủ trong quá trình vận chuyển chất thải nguy hại; bên cạnh đó, đề xuất giữ nguyên việc sử dụng hệ thống định vị (GPS) quy định tại khoản 2 Điều 8 Thông tư số 36/2015/TT-BTNMT, tuy nhiên, cần thiết phải có sự nghiên cứu, điều chỉnh quy định một cách hợp lý về cách thức để hệ thống định vị GPS đối với phương tiện vận chuyển được áp dụng hiệu quả trên thực tế bằng cách giới thiệu, phổ biến, hướng dẫn cụ thể kiến thức về GPS và cách sử dụng; mở rộng sự kết nối mạng internet để quá trình vận chuyển được cập nhật chính xác, tránh gián đoạn.
- Tiếp tục hoàn thiện Bộ luật Hình sự theo hướng:
+ Về chủ thể của tội phạm, nên bổ sung theo hướng quy định trách nhiệm hình sự đối của pháp nhân đối với tội phạm quy định tại Điều 236 Bộ luật Hình sự năm 2015 để tránh được việc bỏ lọt tội phạm, tạo động lực nâng cao ý thức của pháp nhân trong việc quản lý, kiểm soát chất thải nguy hại ra môi trường.
+ Về hình phạt, cần sửa đổi quy định về khung hình phạt và mức hình phạt theo hướng tăng nặng thêm mức hình phạt tiền khi áp dụng là hình phạt chính để đồng bộ và hợp lý với mức xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Mặt khác, cần quy định lại mức hình phạt tù có thời hạn theo hướng tăng nặng hơn nhưng vẫn đảm bảo sự hợp lý của khung hình phạt - vì chính nó có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng, rất nghiệm trọng và đặc biệt nghiêm trọng đối với con người và môi trường.
Thứ hai, nâng cao chất lượng quản lý chất thải nguy hại thông qua việc thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
- Học hỏi và vận dụng phương pháp quản lý chất thải nguy hại của các nước trên thế giới phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam.
- Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ trong công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm quy định về xử lý chất thải nguy hại nhằm phát hiện nhanh chóng, kịp thời, đảm bảo nguyên tắc chủ thế gây thiệt hại cho môi trường phải chịu trách nhiệm pháp lý đặt ra theo quy định của pháp luật. Đồng thời, ngoài việc chủ thể bị áp dụng trách nhiệm pháp lý khi có hành gây thiệt hại cho môi trường nên tăng cường hình phạt bổ sung phải cải tạo, khôi phục lại môi trường do hành vi mình gây nên.
- Cần đẩy mạnh công tác thu gom, lưu giữ, vận chuyển và xử lý chất thải nguy hại theo quy định của pháp luật để bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, cơ sở xử lý tích cực áp dụng khoa học công nghệ và kỹ thuật trong việc xử lý chất thải nguy hại.
Thứ ba, Nhà nước nên tạo điều kiện và có những chính sách khuyến khích đối với cơ sở sử dụng công nghệ sạch, tiên tiến bảo vệ môi trường như: Giảm thuế, miễn thuế, khen thưởng, vinh danh các cơ sở và quảng bá công khai trên cổng thông tin đại chúng. Có như vậy, một phần sẽ tạo động lực cho các cơ sở có ý thức trong việc bảo vệ môi trường nói chung và thải chất thải nguy hại ra ngoài môi trường nói riêng.
Thứ tư, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nội dung của pháp luật quản lý chất thải nguy hại nhằm mục đích nâng cao nhận thức của người dân về tác hại của loại chất thải này đối với môi trường và đời sống cộng đồng, đặc biệt đối với người dân sống xung quanh vùng quy hoạch các công trình xử lý chất thải. Cần sử dụng triệt để thông tin đại chúng như: Báo chí, truyền hình, băng rôn, khẩu hiệu... để đưa các thông tin về chất thải nguy hại vào đời sống quần chúng, giáo dục ý thức của cộng đồng trong việc thực hiện pháp luật quản lý chất thải nguy hại.
Ảnh: Internet
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Thị Bình (2013), Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đối với doanh nghiệp ở Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Bùi Đức Hiển (2016), Hoàn thiện pháp luật về môi trường để bảo đảm phát triển bền vững, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 29/01/2016.
3. Lương Thị Lan (2014), Cách nhận biết để phân loại, thu gom, lưu trữ, xử lý chất thải nguy hại, Bản tin môi trường tỉnh Lai Châu, số 2/2014.
4. Vũ Thị Duyên Thủy (2009), Xây dựng và hoàn thiện pháp luật quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội.
5. Lâm Minh Triết, Lê Thanh Hải (2006), Giáo trình quản lý chất thải nguy hại năm 2006, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.