1. Sự cần thiết ban hành Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016, qua 08 năm thi hành, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 đã khẳng định được tính hiệu quả trong việc đảm bảo an sinh xã hội và đáp ứng nhu cầu của người lao động thông qua nguyên tắc đóng - hưởng. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện, Luật đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập như tỷ lệ người tham gia và hưởng lợi từ bảo hiểm xã hội vẫn chưa đạt được mức kỳ vọng; tình trạng chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm xã hội vẫn diễn ra phổ biến, đặc biệt là ở các doanh nghiệp nhỏ và vừa; chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện chưa đủ hấp dẫn để thu hút người dân tham gia; một số quy định không còn phù hợp trong bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay… Những tồn tại, hạn chế này đã đặt ra yêu cầu cấp thiết phải sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 nhằm mở rộng diện bao phủ, nâng cao tính tuân thủ và bảo đảm quyền lợi tốt hơn cho người lao động.
Việc xây dựng Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 là một bước tiến quan trọng, thể hiện sự cam kết của Nhà nước trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho người dân. Điều này được khẳng định rõ trong Điều 34 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận quyền được bảo đảm an sinh xã hội của mỗi công dân: “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”. Không chỉ vậy, việc xây dựng Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 còn là sự cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về cải cách hệ thống an sinh xã hội như Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội (Nghị quyết số 28-NQ/TW) đã đặt ra mục tiêu: “Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội để bảo hiểm xã hội thực sự là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, từng bước mở rộng vững chắc diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân. Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại và hội nhập quốc tế theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và phát triển hệ thống thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tinh gọn, chuyên nghiệp, hiện đại, tin cậy và minh bạch”; các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cũng đề cập đến việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về an sinh xã hội, trong đó có chính sách bảo hiểm xã hội. Điều này cho thấy, việc xây dựng Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 không chỉ là yêu cầu cấp thiết, mà còn là xu thế tất yếu nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân và phù hợp với định hướng phát triển của đất nước.
2. Một số nội dung mới quan trọng của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã có nhiều thay đổi đáng kể so với Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014. Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 không chỉ kế thừa những thành tựu của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 mà còn thể hiện rõ quyết tâm của Nhà nước trong việc nâng cao chất lượng an sinh xã hội, cụ thể hóa các chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 hướng tới ba mục tiêu chính là: (i) Bảo đảm an sinh xã hội theo quy định của Hiến pháp; thể chế hóa quan điểm, đường lối, nội dung cải cách trong Nghị quyết số 28-NQ/TW và các văn kiện, nghị quyết có liên quan; (ii) Sửa đổi căn bản các vướng mắc, bất cập từ thực tiễn; (iii) Mở rộng, gia tăng quyền, lợi ích để thu hút người lao động tham gia bảo hiểm xã hội.
Với 11 chương, 141 điều, tăng 02 chương và 16 điều so với Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 có những điểm mới cơ bản như sau:
- Bổ sung quy định về trợ cấp hưu trí xã hội
Trợ cấp hưu trí xã hội là một loại hình bảo hiểm hoàn toàn do ngân sách nhà nước chi trả, không yêu cầu người hưởng phải đóng góp trước đó. Trợ cấp này được xây dựng dựa trên quy định về trợ cấp xã hội hàng tháng cho người cao tuổi không có lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, thể hiện sự kế thừa và phát triển các chính sách an sinh xã hội hiện có. Điểm đáng chú ý là Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã hạ độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội xuống 75 tuổi (so với 80 tuổi của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014). Đặc biệt, đối với những người thuộc hộ nghèo và cận nghèo thì từ đủ 70 tuổi đến dưới 75 tuổi được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
Việc hạ độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội là cần thiết để thể chế hóa quan điểm được nêu tại Nghị quyết số 28-NQ/TW với mục tiêu đến năm 2030 phấn đấu đạt khoảng 60% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội.
- Bổ sung quy định về trợ cấp hằng tháng dành cho những người chưa đủ điều kiện hưởng lương hưu hoặc trợ cấp hưu trí xã hội
Với việc bổ sung chế độ trợ cấp hằng tháng đối với người lao động không đủ điều kiện hưởng lương hưu và chưa đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã gia tăng sự liên kết giữa tầng trợ cấp hưu trí xã hội và bảo hiểm xã hội cơ bản. Cụ thể: Công dân Việt Nam đủ tuổi nghỉ hưu nhưng không đủ thời gian đóng để hưởng lương hưu (chưa đủ 15 năm đóng) và chưa đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội (chưa đủ 75 tuổi) nếu không hưởng bảo hiểm xã hội một lần và không bảo lưu mà có yêu cầu thì được hưởng trợ cấp hằng tháng từ chính khoản đóng của mình. Trong thời gian hưởng trợ cấp hằng tháng thì được ngân sách nhà nước đóng bảo hiểm y tế. Quy định này không chỉ mở rộng diện bao phủ mà còn lấp đầy khoảng trống chính sách cho một nhóm đối tượng đặc thù là những người lao động đã có đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội nhưng chưa đủ điều kiện để hưởng các chế độ hiện hành, đảm bảo rằng mọi người lao động, dù không đủ điều kiện hưởng lương hưu hay trợ cấp hưu trí xã hội, vẫn được hỗ trợ một cách thiết thực và công bằng.
- Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc
Nhằm mở rộng đối tượng được tham gia và thụ hưởng đầy đủ các chế độ bảo hiểm xã hội, khoản 1 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bổ sung các nhóm đối tượng sau: “k) Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố; l) Đối tượng quy định tại điểm a khoản này làm việc không trọn thời gian, có tiền lương trong tháng bằng hoặc cao hơn tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp nhất; m) Chủ hộ kinh doanh của hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh tham gia theo quy định của Chính phủ; n) Người quản lý doanh nghiệp, kiểm soát viên, người đại diện phần vốn nhà nước, người đại diện phần vốn của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật; thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc, thành viên Ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên và các chức danh quản lý khác được bầu của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định của Luật Hợp tác xã không hưởng tiền lương”.
Việc mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đã thực hiện đúng theo yêu cầu của Nghị quyết số 28-NQ/TW là: “Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc sang các nhóm đối tượng khác”; “Rà soát, mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với các nhóm chủ hộ kinh doanh, người quản lý doanh nghiệp, người quản lý, điều hành hợp tác xã không hưởng tiền lương, người lao động làm việc theo chế độ linh hoạt”. Dự kiến khi Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 được đưa vào thực tiễn, khoảng 03 triệu người sẽ có thêm cơ hội được tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc[1]. Việc tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc giúp người lao động được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội như ốm đau, thai sản, hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Đây là những quyền lợi quan trọng, giúp người lao động giảm bớt gánh nặng tài chính khi gặp rủi ro, đồng thời đảm bảo cuộc sống ổn định sau khi nghỉ hưu.
- Mở rộng quyền lợi cho người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm: Ốm đau; thai sản; tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; hưu trí và chế độ tử tuất. Tuy nhiên, đối tượng người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn mới chỉ tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc với hai chế độ là hưu trí và tử tuất. Theo số liệu thống kê, đến hết năm 2022, có 86 nghìn người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc nhưng chỉ có 02 chế độ là hưu trí và tử tuất. Tại các kỳ họp Quốc hội, nhiều cử tri, Đại biểu Quốc hội kiến nghị bổ sung quyền lợi chế độ ốm đau, thai sản đối với đối tượng người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn; đặc biệt trong bối cảnh đẩy mạnh việc phân cấp của các địa phương thì khối lượng công việc đảm nhiệm của đối tượng này ngày càng lớn, cần khuyến khích đảm bảo quyền lợi về bảo hiểm xã hội với nhóm này[2]. Chính vì vậy, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã mở rộng quyền lợi cho người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, cho phép nhóm đối tượng này được hưởng chế độ ốm đau và thai sản. Với quy định này, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã khắc phục bất cập của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, bảo đảm sự công bằng và bình đẳng trong việc thụ hưởng bảo hiểm xã hội cho mọi đối tượng người lao động.
- Bổ sung trợ cấp thai sản cho đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện
Theo quy định Luật Bảo hiểm xã hội 2014, chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện chỉ bao gồm 02 chế độ hưu trí và tử tuất, chưa có các chế độ khác như ốm đau, thai sản để người tham gia lựa chọn. Chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện được thực hiện chính thức ở nước ta từ năm 2008 theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006. Sau 14 năm thực hiện, tính đến cuối năm 2021 cả nước có 1,45 triệu người tham gia, chiếm khoảng 8,8% tổng số người tham gia bảo hiểm xã hội, tương đương với khoảng đạt 2,96% lực lượng lao động trong độ tuổi là nông dân và lao động khu vực phi chính thức[3]. Nguyên nhân dẫn đến số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện còn thấp chủ yếu là do chính sách bảo hiểm xã hội còn chưa đủ hấp dẫn, người lao động chưa được hưởng các quyền lợi ngắn hạn, mức hỗ trợ người dân tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện còn rất thấp.
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã khắc phục được vấn đề này. Luật đã bổ sung trợ cấp thai sản cho đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện nếu đáp ứng đủ điều kiện tại Điều 94 Luật này sẽ được hưởng trợ cấp thai sản 2.000.000 đồng cho mỗi con được sinh ra và mỗi thai từ 22 tuần tuổi trở lên chết trong tử cung, thai chết trong khi chuyển dạ (bằng mức mà ngân sách nhà nước đang hỗ trợ cho phụ nữ thuộc hộ nghèo là người dân tộc thiểu số khi sinh con đúng chính sách dân số). Lao động nữ là người dân tộc thiểu số hoặc lao động nữ là người dân tộc Kinh có chồng là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo khi sinh con còn được hưởng chính sách hỗ trợ khác theo quy định của Chính phủ. Khoản trợ cấp này được chi trả từ ngân sách nhà nước, đồng nghĩa với việc người lao động không phải đóng thêm bất kỳ khoản phí nào. Việc bổ sung này của Nhà nước đối với người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện sẽ giảm bớt sự khác biệt giữa bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện cũng như tăng sức hấp dẫn của chính sách bảo hiểm xã hội dành cho nhóm đối tượng không có quan hệ lao động.
- Giảm điều kiện về số năm đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu để được hưởng lương hưu
Theo số liệu thống kê, trong 07 năm thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, có trên 476 nghìn người hưởng bảo hiểm xã hội một lần đã có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội trên 10 năm với độ tuổi từ 40 tuổi trở lên; có trên 53 nghìn người đã hết tuổi lao động phải nhận bảo hiểm xã hội một lần do chưa đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc; có trên 20 nghìn người khi đến tuổi nghỉ hưu chưa đủ thời gian đóng phải đóng một lần cho thời gian còn thiếu để hưởng lương[4]. Điều kiện 20 năm đóng bảo hiểm xã hội để được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng là khá dài, không phù hợp với khả năng tạo và duy trì việc làm của nền kinh tế cho người lao động. Nhằm tạo cơ hội cho những người tham gia muộn hoặc quá trình tham gia không liên tục có thời gian đóng bảo hiểm xã hội ngắn được hưởng lương hưu, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã giảm điều kiện về số năm đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu để được hưởng lương hưu từ 20 năm xuống 15 năm.
- Bổ sung quy định nhằm khuyến khích người lao động bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội để hưởng lương hưu
Giai đoạn từ năm 2016 - 2021, hơn 4,25 triệu lao động tham gia bảo hiểm xã hội và 4,06 triệu người rút một lần khiến lưới an sinh ngày càng mỏng. Bình quân mỗi năm gần 700.000 người rút bảo hiểm xã hội một lần với số lượng năm sau cao hơn năm trước, tốc độ tăng trung bình 11%. Tổng kinh phí chi trả giai đoạn này là 131.940 tỷ đồng theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tại báo cáo đầu tháng 3 về triển khai Nghị quyết số 93/2015/QH13 ngày 22/6/2015 của Quốc hội về việc thực hiện chính sách hưởng bảo hiểm xã hội một lần đối với người lao động[5]. Đây là con số lớn so với nỗ lực phát triển của Ngành Bảo hiểm xã hội. Trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần có thể đáp ứng nhu cầu tài chính trước mắt nhưng lấy đi sự bảo trợ khi về già với các chế độ hưu trí hàng tháng cùng với bảo hiểm y tế do quỹ bảo hiểm xã hội chi trả và chế độ tử tuất bao gồm cả mai táng phí và trợ cấp tử tuất hàng tháng hoặc một lần.
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã có những sửa đổi quan trọng nhằm khuyến khích người lao động bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội để hưởng lương hưu, thay vì nhận bảo hiểm xã hội một lần. Cụ thể, Điều 70 và Điều 102 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 chỉ cho phép người lao động nhận bảo hiểm xã hội một lần trong một số trường hợp nhất định sau: Đủ tuổi hưởng lương hưu mà chưa đủ 15 năm đóng bảo hiểm xã hội; ra nước ngoài để định cư, người mang một trong những bệnh ung thư, bại liệt, xơ gan mất bù, lao nặng, AIDS; người có mức suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; người khuyết tật đặc biệt nặng; người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội trước ngày 01/7/2025, sau 12 tháng không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mà cũng không tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện và có thời gian đóng bảo hiểm xã hội chưa đủ 20 năm. Như vậy, đối với người bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội từ ngày 01/7/2025 trở đi thì sẽ giải quyết bảo hiểm xã hội một lần trong các trường hợp nêu trên.
Người lao động mà không hưởng bảo hiểm xã hội một lần mà bảo lưu thời gian đóng để tiếp tục tham gia thì có cơ hội được thụ hưởng các quyền lợi cao hơn như: Người lao động sẽ tích lũy thêm thời gian đóng, từ đó được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội với mức cao hơn; được hưởng lương hưu với điều kiện dễ dàng hơn; trong thời gian hưởng lương hưu được quỹ bảo hiểm xã hội đóng bảo hiểm y tế; được hưởng trợ cấp hàng tháng khi không đủ điều kiện hưởng lương hưu và chưa đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội; được Nhà nước đóng bảo hiểm y tế trong thời gian hưởng trợ cấp hàng tháng
- Bổ sung quy định hợp tác quốc tế về bảo hiểm xã hội
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã bổ sung quy định nhằm đảm bảo tốt hơn quyền tham gia và thụ hưởng bảo hiểm xã hội đối với người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài và người lao động nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam. Cụ thể, tại khoản 4 Điều 8 Luật này quy định: “Trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về thời gian tham gia bảo hiểm xã hội của người lao động ở Việt Nam và ở nước ngoài được tính để xét điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm xã hội thì mức hưởng chế độ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam được tính theo thời gian người lao động đã đóng bảo hiểm xã hội tại Việt Nam”.
Quy định này bảo đảm rằng, thời gian đóng bảo hiểm xã hội của người lao động ở cả Việt Nam và nước ngoài được tính để xét điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, giúp người lao động không bị mất quyền lợi khi di chuyển giữa các quốc gia để làm việc; tạo cơ sở pháp lý để Việt Nam tham gia các điều ước quốc tế về bảo hiểm xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi thông tin và hợp tác giữa các quốc gia trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội; bảo đảm quyền lợi bảo hiểm xã hội cho lao động nước ngoài sẽ giúp thu hút họ đến làm việc tại Việt Nam, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Mở rộng danh mục và phương thức đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội
Theo tinh thần nội dung cải cách của Nghị quyết số 28-NQ/TW: “Đa dạng hóa danh mục, cơ cấu đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội theo nguyên tắc an toàn, bền vững, hiệu quả: Tăng cường công tác đánh giá, dự báo tài chính, hiệu quả đầu tư các quỹ bảo hiểm xã hội; đa dạng hóa danh mục, cơ cấu đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội theo nguyên tắc an toàn, bền vững và hiệu quả; ưu tiên đầu tư vào trái phiếu chính phủ, nhất là trái phiếu chính phủ dài hạn; nghiên cứu từng bước mở rộng sang các lĩnh vực có khả năng sinh lời cao, từng bước và có lộ trình đầu tư một phần tiền nhàn rỗi của Quỹ thông qua ủy thác đầu tư tại thị trường trong nước và quốc tế bảo đảm an toàn, bền vững”, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã mở rộng danh mục và phương thức đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội, tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội.
Cụ thể, khoản 1 Điều 122 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã mở rộng Danh mục đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội tại thị trường trong nước bao gồm:
“a) Công cụ nợ của Chính phủ, bao gồm trái phiếu Chính phủ, tín phiếu Kho bạc Nhà nước, công trái xây dựng Tổ quốc;
b) Trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh;
c) Tiền gửi tại các ngân hàng thương mại nhà nước và ngân hàng thương mại cổ phần có vốn nhà nước trên 50% vốn điều lệ; không thực hiện đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội tại các ngân hàng thương mại đang được kiểm soát đặc biệt;
d) Trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi của các ngân hàng thương mại nhà nước và ngân hàng thương mại cổ phần có vốn nhà nước trên 50% vốn điều lệ; không thực hiện đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội tại các ngân hàng thương mại đang được kiểm soát đặc biệt”.
Ngoài ra, Luật cũng cho phép đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội vào trái phiếu Chính phủ tại thị trường quốc tế.
Về phương thức đầu tư, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 cho phép cơ quan bảo hiểm xã hội được tự đầu tư hoặc ủy thác đầu tư tại thị trường trong nước và quốc tế.
- Bổ sung quy định về bảo hiểm hưu trí bổ sung
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã bổ sung một chương riêng về bảo hiểm hưu trí bổ sung thể hiện cam kết của Nhà nước trong việc đa dạng hóa các hình thức bảo hiểm xã hội, mang đến cho người lao động và người sử dụng lao động thêm lựa chọn để bảo đảm một cuộc sống ổn định sau khi nghỉ hưu. Bảo hiểm hưu trí bổ sung là một loại hình bảo hiểm hoàn toàn tự nguyện, dựa trên nguyên tắc thị trường. Nó được thiết kế để bổ sung cho chế độ hưu trí trong bảo hiểm xã hội bắt buộc. Chương này của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 quy định rõ về đối tượng tham gia, nguyên tắc hoạt động, quỹ bảo hiểm và các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với bảo hiểm hưu trí bổ sung. Theo đó, mức đóng bảo hiểm hưu trí bổ sung sẽ do người lao động và người sử dụng lao động tự nguyện thỏa thuận, khoản đóng góp được quản lý theo từng tài khoản hưu trí cá nhân, bảo đảm tính minh bạch và công bằng. Đặc biệt, Nhà nước sẽ có các chính sách khuyến khích phát triển bảo hiểm hưu trí bổ sung, chẳng hạn như ưu đãi về thuế, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người lao động và người sử dụng lao động tham gia.
- Quy định cụ thể về “mức tham chiếu” thay cho “mức lương cơ sở”
Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp sẽ không còn “mức lương cơ sở”. Mặt khác, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 lại quy định nhiều khoản trợ cấp gắn với “mức lương cơ sở”. Vì vậy, việc sửa đổi này là cần thiết để phù hợp với định hướng của Nghị quyết số 27-NQ/TW.
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã chính thức thay thế khái niệm “mức lương cơ sở” bằng “mức tham chiếu” để tính toán các khoản đóng, hưởng bảo hiểm xã hội. Mức tham chiếu là một mức tiền cụ thể do Chính phủ quyết định, có vai trò quan trọng trong việc xác định quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội. Theo quy định của Luật, trong thời gian chưa bãi bỏ mức lương cơ sở, mức tham chiếu sẽ bằng mức lương cơ sở. Tuy nhiên, khi mức lương cơ sở không còn được áp dụng, mức tham chiếu sẽ không được thấp hơn mức lương cơ sở tại thời điểm đó. Đặc biệt, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 quy định mức tham chiếu sẽ được điều chỉnh định kỳ dựa trên các yếu tố kinh tế vĩ mô như chỉ số giá tiêu dùng, tăng trưởng kinh tế và khả năng của ngân sách nhà nước cũng như quỹ bảo hiểm xã hội. Điều này đảm bảo mức tham chiếu luôn phản ánh đúng tình hình kinh tế thực tế, từ đó bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội trước những biến động của nền kinh tế.
- Quy định về quản lý thu, đóng bảo hiểm xã hội
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã dành riêng Chương IV để quy định về quản lý thu, đóng bảo hiểm xã hội, thể hiện quyết tâm của Nhà nước trong việc tăng cường tính tuân thủ pháp luật bảo hiểm xã hội và bảo vệ quyền lợi của người lao động. Chương IV quy định rõ các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bao gồm cả những đối tượng mới được bổ sung như chủ hộ kinh doanh, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, người lao động làm việc không trọn thời gian, người quản lý doanh nghiệp không hưởng lương... Việc xác định rõ đối tượng sẽ giúp cơ quan bảo hiểm xã hội dễ dàng quản lý, giám sát việc tham gia bảo hiểm xã hội của các đối tượng này.
Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 quy định chi tiết về tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bao gồm cả mức lương tối thiểu và tối đa. Việc quy định rõ căn cứ đóng sẽ giúp tránh tình trạng doanh nghiệp khai báo tiền lương thấp hơn thực tế để trốn đóng bảo hiểm xã hội.
Các điều 33, 34 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 quy định rõ mức đóng, phương thức và thời hạn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với từng đối tượng tham gia. Việc quy định rõ ràng này sẽ giúp người lao động và người sử dụng lao động hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình, từ đó nâng cao ý thức chấp hành pháp luật bảo hiểm xã hội.
Điều 38 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 nêu rõ các trường hợp chậm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp, bao gồm cả việc không đóng hoặc đóng không đủ số tiền phải đóng, không đăng ký hoặc đăng ký không đầy đủ số người tham gia bảo hiểm. Điều 39 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 quy định chi tiết về hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp, bao gồm cả việc cố tình khai báo sai thông tin để trốn đóng hoặc đóng không đủ. Quy định tại Điều 38 và Điều 39 Luật này sẽ góp phần tạo ra tính răn đe, buộc người sử dụng lao động phải thực hiện nghiêm túc việc đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động.
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 cũng đưa ra các biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với hành vi chậm đóng và trốn đóng bảo hiểm xã hội. Điều 40 Luật này quy định các biện pháp xử lý hành vi chậm đóng, bao gồm việc bắt buộc đóng đủ số tiền chậm đóng, nộp tiền phạt chậm đóng và các hình phạt bổ sung khác như không được xem xét trao tặng danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng. Điều 41 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 quy định các biện pháp xử lý hành vi trốn đóng, bao gồm việc bắt buộc đóng đủ số tiền trốn đóng, nộp tiền phạt trốn đóng và có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Bổ sung quy định giao dịch điện tử trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội; điều chỉnh, cắt giảm, đơn giản hóa hồ sơ, thủ tục thực hiện bảo hiểm xã hội
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã có những bước tiến đáng kể trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia và thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quy trình thực hiện. Một trong những điểm nổi bật là việc bổ sung quy định về giao dịch điện tử trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội. Theo đó, các tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện có thể thực hiện các giao dịch liên quan đến bảo hiểm xã hội với cơ quan bảo hiểm xã hội thông qua phương tiện điện tử. Các giao dịch này bao gồm đăng ký tham gia, cấp sổ bảo hiểm xã hội, đóng bảo hiểm xã hội, giải quyết và chi trả chế độ bảo hiểm xã hội và các hoạt động khác. Điều này giúp tiết kiệm thời gian, công sức và chi phí đi lại cho người dân, đồng thời nâng cao tính minh bạch và hiệu quả của hệ thống bảo hiểm xã hội. Bên cạnh đó, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 cũng chú trọng đến việc điều chỉnh, cắt giảm và đơn giản hóa hồ sơ, thủ tục thực hiện bảo hiểm xã hội. Chính phủ được giao nhiệm vụ cụ thể hóa việc chuyển đổi từ giao dịch bằng bản giấy sang giao dịch điện tử, nhằm tạo sự thuận tiện tối đa cho người tham gia và thụ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội.
- Sửa đổi, bổ sung quy định của các chế độ bảo hiểm xã hội phù hợp hơn với thực tiễn, bảo đảm quyền lợi của người lao động
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 không chỉ kế thừa những quy định đã chứng minh tính hiệu quả của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, mà còn có nhiều điều chỉnh quan trọng nhằm tối ưu hóa và nâng cao hiệu quả của hệ thống bảo hiểm xã hội. Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định về chế độ bảo hiểm xã hội để phù hợp hơn với thực tiễn đời sống, kinh tế - xã hội, đồng thời bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người lao động. Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã giải quyết những bất cập, vướng mắc còn tồn tại trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, đồng thời bổ sung thêm nhiều quy định mới nhằm mở rộng diện bao phủ, nâng cao tính bền vững của hệ thống bảo hiểm xã hội. Thông qua việc điều chỉnh các quy định về mức đóng, mức hưởng, điều kiện hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã tăng cường tính khả thi và dài hạn của chính sách bảo hiểm xã hội. Các quy định này được xây dựng trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng, bảo đảm sự cân đối giữa quyền lợi của người lao động và khả năng chi trả của quỹ bảo hiểm xã hội. Đặc biệt, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 còn thể hiện sự đồng bộ và thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành, đặc biệt là với Bộ luật Lao động hiện hành. Điều này giúp tạo ra một môi trường pháp lý ổn định và thuận lợi cho việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội.
3. Kết luận
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã thể hiện rõ sự nỗ lực của Nhà nước trong việc hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, hướng tới mục tiêu an sinh toàn dân. Với những điểm mới nổi bật được đề cập trong bài viết này, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 được kỳ vọng sẽ tạo ra những chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo đảm an sinh cho người dân Việt Nam.
Tuy nhiên, để Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 thực sự phát huy hiệu quả, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động trong việc thực thi các quy định của Luật. Đồng thời, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến để người dân hiểu rõ và nắm bắt được những quyền lợi và trách nhiệm của mình theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024./.
Hoàng Trung
Ảnh: internet
[1] Https://baohiemxahoi.gov.vn/tintuc/Pages/linh-vuc-bao-hiem-xa-hoi.aspx?CateID=168&ItemID=21753&OtItem=date, truy cập ngày 30/7/2024.
[2] Tờ trình số 527/TTr-CP ngày 10/10/2023 của Chính phủ.
[3] Đề xuất hoàn thiện chính sách và tổ chức thực hiện chế độ ốm đau, thai sản ở Việt Nam, ĐT.018/2020, Ban Thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, ThS. Bùi Thị Kim Loan, 2022, tr. 40.
[4] Tờ trình số 527/TTr-CP ngày 10/10/2023 của Chính phủ.