Chủ nhật 14/12/2025 07:38
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển

Tóm tắt: Trong kinh tế tri thức, tài sản trí tuệ là yếu tố then chốt góp phần quan trọng nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển tư nhân. Bài viết nghiên cứu một số bất cập về pháp luật sở hữu trí tuệ, từ đó, đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ, đồng thời, đưa ra giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong việc khai thác hiệu quả giá trị kinh tế của tài sản trí tuệ, góp phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh.

Từ khóa: quyền sở hữu trí tuệ; kinh tế tư nhân; doanh nghiệp.

Abstract: In the knowledge economy, intellectual property is a key factor contributing significantly to improving competitiveness and private sector development. This article examines some shortcomings of intellectual property law, thereby proposing recommendations to improve the legal framework and enforcement mechanism of intellectual property rights, and at the same time, providing solutions to support enterprises in effectively exploiting the economic value of intellectual property, contributing to promoting innovation and improving competitiveness.

Keywords: Intellectual property rights; private economy; enterprises.

Đặt vấn đề

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế sâu, rộng, sở hữu trí tuệ (SHTT) trở thành yếu tố then chốt thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và là động lực phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Nhận thức được vai trò này, Việt Nam đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về SHTT nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập và bảo vệ quyền lợi của các chủ thể, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy, pháp luật SHTT còn nhiều bất cập như: quy định phân tán, thiếu thống nhất, cơ chế thực thi chậm, hiệu quả xử lý vi phạm chưa cao; đồng thời, nhiều doanh nghiệp còn thiếu kiến thức, kinh nghiệm và nguồn lực để quản trị, khai thác tài sản trí tuệ. Do đó, việc đánh giá thực trạng pháp luật về SHTT, nhận diện hạn chế và đề xuất giải pháp hoàn thiện khung pháp lý, tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp là yêu cầu cấp thiết nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập.

1. Tổng quan về quyền sở hữu trí tuệ và kinh tế tư nhân

1.1. Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ

Quyền SHTT được các học giả và tổ chức quốc tế coi là nền tảng pháp lý và kinh tế quan trọng nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo vệ thành quả lao động trí tuệ và hỗ trợ phát triển kinh tế tri thức. Theo World Intellectual Property Organization (WIPO), SHTT là “các sáng tạo của trí óc như phát minh, tác phẩm văn học - nghệ thuật, thiết kế, biểu tượng, tên gọi và hình ảnh dùng trong thương mại”[1]. Ở góc độ pháp lý, SHTT là “tài sản phi vật chất gắn liền với sản phẩm sáng tạo… bảo hộ pháp lý kiểm soát các biểu hiện vật chất của ý tưởng”[2]. Trong kinh tế học, việc bảo hộ SHTT khuyến khích đầu tư sáng tạo, chuyển giao công nghệ, tránh sao chép[3]. Theo Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung các năm 2009, 2019, 2022 (Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005), quyền SHTT gồm 03 nhóm: quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng, trở thành “tài sản mềm” tạo lợi thế cạnh tranh bền vững.

1.2. Kinh tế tư nhân và vai trò của quyền sở hữu trí tuệ đối với kinh tế tư nhân

Kinh tế tư nhân là thành phần then chốt của nền kinh tế Việt Nam, là “động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia”[4]. Vì thế, Việt Nam xác định mục tiêu đến năm 2030 có khoảng 02 triệu doanh nghiệp, đóng góp 55 - 58% GDP[5]. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, doanh nghiệp tư nhân nhỏ, hạn chế vốn, công nghệ, quản trị; nâng cao quản trị, tài chính, tài sản trí tuệ là nhân tố then chốt để phát triển. Vì thế, quyền SHTT đóng vai trò then chốt trong phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), doanh nghiệp đầu tư vào tài sản trí tuệ thường có hiệu quả kinh doanh cao hơn[6]. Tại Việt Nam, các doanh nghiệp lớn như Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk), Tập đoàn Masan (Masan), Công ty Cổ phần Thế Giới Di Động (Thế giới di động) đã phát triển thương hiệu, sáng chế và kiểu dáng công nghiệp để củng cố thị phần và mở rộng xuất khẩu. Ví dụ, Vinamilk cam kết đổi mới bền vững tại Đại hội Sữa Toàn cầu 2024 với mục tiêu “Dairy Net Zero 2050”[7].

Tuy nhiên, so với hơn 940.000 doanh nghiệp hoạt động (cuối năm 2024), trong đó, 97% là doanh nghiệp nhỏ và vừa[8], số doanh nghiệp áp dụng chiến lược SHTT bài bản còn rất hạn chế, do nhiều rào cản về vốn, công nghệ và quản trị.

1.3. Mối quan hệ giữa bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và phát triển kinh tế tư nhân

Bảo hộ quyền SHTT giúp doanh nghiệp khai thác tài sản vô hình, vốn ngày càng quan trọng trong việc tạo giá trị và nâng cao năng lực cạnh tranh. Tài sản vô hình như sáng chế, thương hiệu và phần mềm có thể vượt trội so với tài sản hữu hình và là yếu tố then chốt cho thành công[9]. Doanh nghiệp sở hữu quyền SHTT thường đạt doanh thu trên mỗi nhân viên cao hơn khoảng 55%[10] và chiếm phần lớn tổng tài sản vô hình, trở thành trung tâm tạo nên giá trị doanh nghiệp[11].

Quyền SHTT còn mở ra cơ hội thương mại hóa thông qua nhượng quyền, cấp phép hoặc góp vốn bằng sáng chế, thương hiệu. Theo Báo cáo WIPO, khai thác hiệu quả tài sản trí tuệ có thể tăng tỷ trọng doanh thu từ tài sản vô hình lên đến 40%. Trong kỷ nguyên chuyển đổi số, đầu tư vào dữ liệu, phần mềm, thương hiệu và các tài sản được bảo hộ bằng SHTT là động lực chính tạo giá trị, giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực thích ứng, phản ứng nhanh và duy trì lợi thế cạnh tranh[12].

2. Một số bất cập trong quy định pháp luật và thực hiện pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ

Pháp luật Việt Nam về quyền SHTT đã có nhiều bước tiến, song trong bối cảnh kinh tế số, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế, còn tồn tại nhiều hạn chế, gây khó khăn cho doanh nghiệp, nhà sáng chế và cơ quan thực thi. Cụ thể:

Thứ nhất, chồng chéo thẩm quyền xử lý xâm phạm quyền SHTT bằng biện pháp hành chính theo Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, đặc biệt liên quan đến Điều 200 và Điều 211, đang gây ra nhiều khó khăn trong thực tiễn. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 trao quyền xử lý cho nhiều cơ quan như Tòa án, thanh tra chuyên ngành, quản lý thị trường, công an, hải quan, nhưng chưa phân định rõ phạm vi và trách nhiệm cụ thể. Hậu quả, cùng một hành vi xâm phạm có thể thuộc thẩm quyền giải quyết của nhiều cơ quan, dẫn đến tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, xử lý trùng lặp hoặc thiếu thống nhất. Ví dụ, hành vi buôn bán hàng giả nhãn hiệu trong nước có thể vừa thuộc thẩm quyền giải quyết của quản lý thị trường, vừa thuộc thẩm quyền của thanh tra chuyên ngành; hàng hóa nhập khẩu vi phạm lại thuộc thẩm quyền giải quyết của cả hải quan và quản lý thị trường. Thực trạng này không chỉ gây lãng phí thời gian và nguồn lực, mà còn ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ sở hữu, khi các hành vi xâm phạm không được xử lý kịp thời. Mặc dù, việc trao thẩm quyền cho nhiều cơ quan giúp tăng khả năng phát hiện và xử lý vi phạm, nhưng thiếu cơ chế phối hợp chặt chẽ và chưa xác định cơ quan chủ trì khiến hiệu quả thực thi pháp luật bị hạn chế[13]. Vì vậy, cần phân định rõ thẩm quyền chủ trì, thiết lập cơ chế phối hợp liên ngành và quy định thời hạn xử lý cụ thể nhằm bảo đảm xử lý xâm phạm thống nhất, kịp thời và hiệu quả.

Thứ hai, sự lúng túng của doanh nghiệp trong việc lựa chọn cơ quan xử lý xâm phạm quyền SHTT. Mặc dù, Điều 199 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã phân định các hình thức xử lý gồm hành chính, dân sự và hình sự, cùng với quy định về thẩm quyền của Tòa án tại Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025), song thiếu hướng dẫn cụ thể để xác định phương thức và thời điểm khởi kiện phù hợp. Điều này làm cho nhiều doanh nghiệp khởi kiện sai thẩm quyền, hồ sơ bị từ chối, gây tốn kém thời gian, chi phí và làm giảm hiệu quả bảo vệ quyền.

Thứ ba, tình trạng hành chính hóa các quan hệ dân sự về quyền SHTT, làm giảm hiệu quả bảo vệ quyền lợi chính đáng của chủ thể quyền. Theo Điều 211 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, chủ thể có quyền yêu cầu xử lý khi bị xâm phạm và các hành vi vi phạm thường được xử lý theo hướng hành chính. Điều này được cụ thể hóa tại Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày 29/8/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Nghị định số 126/2021/NĐ-CP ngày 30/12/2021 của Chính phủ và Nghị định số 46/2024/NĐ-CP ngày 04/5/2024 của Chính phủ, trong đó, quy định các hình thức xử phạt vi phạm hành chính như phạt tiền, tịch thu hàng hóa, đình chỉ hoạt động. Đồng thời, nhiều tranh chấp dân sự về nhãn hiệu, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp không được đưa ra Tòa để xác định quyền một cách triệt để. Việc xử lý hành chính làm cho quyền sở hữu không được khẳng định rõ, dẫn đến khiếu kiện kéo dài, thiếu tính răn đe và tạo điều kiện cho hành vi vi phạm tái diễn.

Thứ tư, trách nhiệm của các sàn thương mại điện tử trong việc xử lý vi phạm quyền SHTT còn “mờ nhạt”. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, dự thảo Luật Thương mại điện tử năm 2025 chưa có quy định về việc các sàn thương mại điện tử có trách nhiệm phối hợp xử lý các vi phạm, đồng thời, trên thực tế, nhiều sàn thương mại như Shopee, Lazada, Tiki[14] thường lợi dụng điều khoản “không biết hoặc không thể biết” để trốn tránh trách nhiệm pháp lý. Việc thiếu kiểm soát chủ động này dẫn đến tình trạng hàng giả, hàng nhái tràn lan trên các nền tảng thương mại điện tử, gây thiệt hại nghiêm trọng cho chủ sở hữu quyền SHTT, cũng như ảnh hưởng tiêu cực đến người tiêu dùng.

Thứ năm, việc xử lý khiếu nại vi phạm quyền SHTT trên các sàn thương mại điện tử gặp nhiều khó khăn, do thiếu cơ chế minh bạch và rõ ràng. Bên cạnh đó, các sàn thương mại điện tử thường phản hồi chậm hoặc thiếu minh bạch trong quá trình giải quyết khiếu nại, dẫn đến tình trạng hàng vi phạm tái diễn, gây thiệt hại lớn cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Thứ sáu, chưa có quy định cụ thể, rõ ràng về tiêu chí cũng như quy trình định giá tài sản SHTT. Mặc dù, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp, được sửa đổi bởi Nghị định số 88/2010/NĐ-CP ngày 16/8/2010 của Chính phủ (Nghị định số 103/2006/NĐ-CP) đã đề cập đến vấn đề quản lý tài sản SHTT, nhưng chưa có hướng dẫn chi tiết về cách thức định giá cụ thể. Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp trong các giao dịch như thế chấp, chuyển nhượng hay góp vốn bằng tài sản SHTT, dẫn đến thiếu minh bạch, thiếu khách quan trong việc xác định giá trị thực của tài sản, ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả và sự phát triển của thị trường tài sản SHTT.

Thứ bảy, chưa có quy định công nhận giá trị định giá tài sản SHTT trong các giao dịch dân sự và tài chính. Do đó, kết quả định giá tài sản SHTT chưa được xem là có giá trị pháp lý cao, gây khó khăn trong việc sử dụng làm căn cứ thế chấp, góp vốn hay chuyển nhượng tài sản.

Thứ tám, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 chưa có quy định cụ thể về tổ chức chuyên trách định giá tài sản SHTT. Luật Giá năm 2023 và văn bản hướng dẫn cũng không đề cập đến điều kiện hay tiêu chuẩn cụ thể cho các tổ chức thực hiện việc định giá này. Điều này dẫn đến việc thiếu các tổ chức định giá tài sản SHTT có chuyên môn cao, năng lực phù hợp và tiêu chuẩn pháp lý rõ ràng. Do đó, các tổ chức thường áp dụng tiêu chuẩn định giá chung, không có tính đặc thù đối với tài sản SHTT, lại thiếu sự giám sát, kiểm định chặt chẽ, gây rủi ro về sai sót và thiếu chính xác trong các giao dịch liên quan đến tài sản SHTT.

Thứ chín, quy trình thẩm định đơn đăng ký quyền SHTT kéo dài. Theo Điều 109 và Điều 114 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, được hướng dẫn chi tiết từ Điều 10 đến Điều 18 Nghị định số 65/2023/NĐ-CP ngày 23/8/2023 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp, bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và quản lý nhà nước về SHTT, thì thủ tục nộp đơn, sửa đổi và thẩm định, thời gian thẩm định đơn SHTT hiện nay kéo dài từ 18 - 24 tháng, thậm chí có thể lâu hơn khi phát sinh yêu cầu sửa đổi hoặc tranh chấp. Quy trình này còn phức tạp do yêu cầu kỹ thuật cao, hồ sơ khó tiếp cận, thủ tục chủ yếu thực hiện thủ công và thiếu minh bạch trong việc công khai tiến độ xử lý. Bên cạnh đó, việc thiếu chuyên gia thẩm định có chuyên môn sâu trong các lĩnh vực kỹ thuật đặc thù cũng là một trong những nguyên nhân khiến thời gian và chất lượng thẩm định bị ảnh hưởng tiêu cực.

Thứ mười, hạ tầng số hỗ trợ thủ tục SHTT còn nhiều hạn chế. Các công cụ như IP Lib, IPPlatform, ePatent và Cổng dịch vụ công của Cục Sở hữu trí tuệ đã được triển khai, trong đó, IPPlatform (từ tháng 5/2020) là nền tảng tiêu biểu, ghi nhận hơn 70.000 lượt truy cập và hàng trăm yêu cầu dịch vụ tư vấn, giao dịch tính đến tháng 11/2020. Tuy nhiên, hệ thống mới hỗ trợ nộp đơn trực tuyến, còn các khâu xử lý tiếp theo vẫn thủ công, gây chậm trễ. Các nền tảng chưa đồng bộ, dữ liệu phân mảnh, giao diện phức tạp và thiếu minh bạch về trạng thái xử lý hồ sơ.

Thứ mười một, theo Điều 4, từ Điều 108 đến Điều 119 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 về quyền SHTT và thủ tục đăng ký, hiện chưa có quy định nào cho phép áp dụng quyền bảo hộ tạm thời hoặc các biện pháp khẩn cấp trước khi cấp bằng chính thức. Điều này dẫn đến bất cập nghiêm trọng khi trong thời gian chờ thẩm định và cấp bằng, có thể kéo dài từ 02 - 03 năm, chủ đơn không được bảo vệ pháp lý để yêu cầu xử lý các hành vi xâm phạm quyền. Thời gian thẩm định kéo dài dẫn đến việc chủ đơn phải chờ lâu mới được cấp bằng, làm giảm tính hiệu quả trong việc bảo vệ quyền SHTT và gây khó khăn trong việc thúc đẩy hoạt động sáng tạo, đặc biệt, đối với các lĩnh vực công nghệ mới và các startup.

Thứ mười hai, theo Điều 225 và Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung các năm 2017, 2025 (Bộ luật Hình sự năm 2015) về tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, hành vi vi phạm chỉ bị xử lý hình sự khi đạt các mức “thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng trở lên”, “thiệt hại từ 100 triệu đồng trở lên” hoặc có “quy mô thương mại”. Tuy nhiên, các khái niệm như “quy mô thương mại” hay “thu lợi bất chính” chưa được định nghĩa rõ ràng, gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố và xét xử các vụ việc vi phạm SHTT. Điều này làm phát sinh nguy cơ bỏ lọt tội phạm, đặc biệt, với các hành vi vi phạm nhỏ lẻ nhưng xảy ra thường xuyên và liên tục.

Thứ mười ba, Nghị định số 46/2024/NĐ-CP quy định các nguyên tắc xử phạt vi phạm trong lĩnh vực SHTT nhưng thiếu các tiêu chí định lượng rõ ràng như số lượng hàng hóa vi phạm, giá trị hàng giả hoặc mức lợi bất chính để làm căn cứ chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra hình sự. Việc thiếu các ngưỡng định lượng cụ thể này dẫn đến sự không đồng nhất trong xử lý vi phạm tại các địa phương, gây khó khăn cho cơ quan thực thi pháp luật trong việc áp dụng biện pháp xử lý nghiêm khắc với các hành vi vi phạm nghiêm trọng.

3. Một số kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về sở hữu trí tuệ

Một là, sửa đổi, bổ sung Điều 200 và Điều 211 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2025[15] (dự thảo Luật), nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo trong thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm bằng biện pháp hành chính. Cụ thể, bổ sung khoản 5 Điều 200 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (khoản 64 Điều 1 dự thảo Luật) nhằm xác định rõ thẩm quyền của cơ quan hải quan trong việc kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến quyền SHTT. Bên cạnh đó, bổ sung điểm đ và e vào khoản 1 Điều 211 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (khoản 69 Điều 1 dự thảo Luật), gồm: “đ) Trốn tránh, cản trở hoặc không hợp tác trong việc kiểm tra, xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT của cơ quan có thẩm quyền; e) Các hành vi xâm phạm quyền SHTT khác theo quy định của pháp luật”. Ngoài ra, bổ sung một khoản tại Điều 211 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (khoản 69 Điều 1 dự thảo Luật) nhằm quy định rõ trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan thanh tra, quản lý thị trường, hải quan và Công an trong việc phát hiện, kiểm tra và xử lý vi phạm, bảo đảm tính thống nhất, hiệu lực và hiệu quả trong thi hành pháp luật về SHTT.

Hai là, bổ sung quy định hướng dẫn phương thức, thời điểm khởi kiện và thẩm quyền cụ thể của các cơ quan trong từng trường hợp xâm phạm quyền SHTT, để giúp doanh nghiệp xác định rõ cơ quan và thủ tục khởi kiện nhằm tránh nhầm lẫn, giảm việc từ chối hồ sơ và tối ưu chi phí, thời gian khởi kiện. Cụ thể, bổ sung Điều 199a Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 về khởi kiện và xác định thẩm quyền trong trường hợp xâm phạm quyền SHTT: “1. Khi quyền SHTT bị xâm phạm, chủ sở hữu hoặc người đại diện hợp pháp có quyền lựa chọn biện pháp xử lý: a) Hành chính; b) Dân sự; c) Hình sự. 2.Thẩm quyền và cơ quan có thẩm quyền xử lý: a) Biện pháp hành chính: cơ quan quản lý nhà nước về SHTT; b) Biện pháp dân sự: Tòa án nhân dân theo Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự; c) Biện pháp hình sự: cơ quan điều tra theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. 3. Phương thức và thời điểm khởi kiện: a) Khởi kiện ngay khi phát hiện hành vi xâm phạm; b) Trường hợp có nhiều hình thức áp dụng, doanh nghiệp được quyền lựa chọn hình thức áp dụng phù hợp; c) Cơ quan quản lý nhà nước về SHTT tư vấn, hướng dẫn thủ tục khi cần. 4. Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp các cơ quan liên quan ban hành sổ tay hướng dẫn lựa chọn hình thức, thẩm quyền và thủ tục khởi kiện để bảo đảm minh bạch, thống nhất, thuận tiện cho doanh nghiệp”. Việc sửa đổi, bổ sung này tạo thuận lợi cho chủ sở hữu khởi kiện dân sự, bảo vệ quyền SHTT của mình bị xâm phạm, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật và thúc đẩy môi trường đổi mới sáng tạo.

Ba là, bổ sung một khoản tại Điều 211 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (khoản 69 Điều 1 dự thảo Luật) với nội dung: “Các tranh chấp dân sự về quyền SHTT, đặc biệt là tranh chấp về nhãn hiệu, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, phải được ưu tiên giải quyết tại Tòa án để xác định quyền sở hữu một cách triệt để, hạn chế sử dụng biện pháp xử lý hành chính trong các trường hợp này”. Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp SHTT, hạn chế chồng chéo trong xử lý hành chính và tăng cường răn đe với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đồng thời, đề xuất phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan chức năng và Tòa án để bảo vệ quyền lợi hợp pháp kịp thời, đúng pháp luật.

Bốn là, để khắc phục tình trạng thiếu trách nhiệm của các sàn thương mại điện tử trong việc xử lý vi phạm quyền SHTT, cần bổ sung điều khoản riêng trong dự thảo Luật Thương mại điện tử năm 2025 (do Bộ Công Thương xây dựng, trình Quốc hội) về trách nhiệm của sàn thương mại điện tử liên quan đến quyền SHTT. Cụ thể: “Trách nhiệm của sàn thương mại điện tử trong bảo vệ quyền SHTT: 1. Sàn thương mại điện tử có trách nhiệm chủ động kiểm soát và loại bỏ các hàng hóa, dịch vụ vi phạm quyền SHTT. 2. Sàn phải rà soát thường xuyên, không được viện dẫn “không biết” để tránh trách nhiệm khi có vi phạm xảy ra. 3. Sàn có trách nhiệm thiết lập cơ chế tiếp nhận thông tin và xử lý phản ánh từ chủ thể quyền và cơ quan quản lý. 4. Trường hợp vi phạm nghĩa vụ, sàn bị xử phạt hành chính và buộc bồi thường thiệt hại theo quy định pháp luật”. Việc bổ sung điều khoản này giúp doanh nghiệp xác định rõ trách nhiệm của sàn thương mại điện tử, tránh né trách nhiệm gây thiệt hại cho chủ sở hữu, người tiêu dùng; đồng thời, bảo đảm minh bạch, hiệu quả trong xử lý vi phạm SHTT.

Năm là, để khắc phục các khó khăn trong việc xử lý khiếu nại vi phạm quyền SHTT trên các sàn thương mại điện tử, cần sửa đổi, bổ sung khoản 6 Điều 76 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 của Chính phủ về thương mại điện tử, được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Nghị định số 85/2021/NĐ-CP ngày 25/9/2021 của Chính phủ như sau: “6. Thời hạn giải quyết khiếu nại, tranh chấp không quá 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Kết quả giải quyết được thông báo bằng văn bản cho các bên liên quan và công khai trên website nếu có yêu cầu”. Việc bổ sung các quy định này nhằm tăng cường trách nhiệm của các bên tham gia trong môi trường thương mại điện tử, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của khách hàng và người bán, cũng như bảo đảm tính minh bạch và hiệu quả trong giải quyết tranh chấp.

Sáu là, sửa đổi, bổ sung Nghị định số 103/2006/NĐ-CP và Nghị định số 88/2010/NĐ-CP để hướng dẫn chi tiết quy trình, tiêu chí định giá tài sản SHTT. Hiện, việc định giá tài sản SHTT còn chưa rõ ràng, gây khó khăn cho doanh nghiệp khi thực hiện giao dịch như thế chấp, chuyển nhượng, góp vốn. Việc thiếu minh bạch cũng ảnh hưởng đến phát triển thị trường tài sản SHTT. Vì vậy,cần sửa đổi, bổ sung Nghị định số 103/2006/NĐ-CP vàbổ sung một điều tại Nghị định số 88/2010/NĐ-CP với nội dung: “Quy định rõ tiêu chí, phương pháp định giá tài sản SHTT, bao gồm chuẩn mực định giá hợp lý nhằm bảo đảm tính minh bạch, khách quan trong các giao dịch tài chính liên quan đến tài sản SHTT”. Quy định này giúp tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho việc định giá tài sản SHTT, từ đó, thúc đẩy giao dịch và phát triển thị trường, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các bên tham gia.

Bảy là, hiện, việc công nhận và áp dụng kết quả định giá tài sản SHTT trong các giao dịch ngân hàng, tín dụng và thuế chưa thống nhất, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong sử dụng tài sản này để thế chấp, chuyển nhượng hoặc góp vốn. Vì thế, cần sửa đổi, bổ sung điều mới trong dự thảo Luật về việc công nhận và áp dụng kết quả định giá tài sản SHTT: “1. Quyền SHTT được công nhận là tài sản nếu đáp ứng các điều kiện theo quy định pháp luật. 2. Kết quả định giá tài sản SHTT do tổ chức thẩm định giá thực hiện được công nhận và sử dụng trong các giao dịch dân sự, tài chính, ngân hàng và thuế. 3. Ngân hàng, tổ chức tín dụng và cơ quan thuế sử dụng kết quả định giá làm căn cứ xác định giá trị tài sản bảo đảm, khoản vay, vốn góp, tính thuế hoặc các giao dịch liên quan khác. 4. Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn và xây dựng cơ sở dữ liệu định giá tài sản SHTT quốc gia bảo đảm minh bạch và thống nhất trong áp dụng”. Quy định này bảo đảm tính minh bạch, pháp lý và sự thống nhất trong việc sử dụng tài sản SHTT làm tài sản thế chấp, góp phần thúc đẩy thị trường tài sản SHTT phát triển bền vững.

Tám là, sửa đổi Luật Giá năm năm 2023 nhằm quy định rõ về tổ chức chuyên trách định giá tài sản SHTT. Hiện, việc định giá tài sản SHTT còn thiếu tổ chức chuyên trách với tiêu chuẩn và quy trình rõ ràng, dẫn đến chất lượng kết quả định giá chưa thống nhất, ảnh hưởng đến độ tin cậy trong các giao dịch tài chính và thương mại liên quan. Theo đó, cần bổ sung một điều khoản với quy định: “a) Thành lập các tổ chức chuyên trách thực hiện định giá tài sản SHTT, đáp ứng tiêu chuẩn chuyên môn và năng lực phù hợp với đặc thù tài sản trí tuệ; b) Các tổ chức này chịu sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước về giá nhằm bảo đảm quy trình định giá minh bạch, khách quan và kết quả chính xác; c) Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy trình, ảnh hưởng đến độ tin cậy của kết quả định giá”. Việc thiết lập tổ chức chuyên trách định giá tài sản SHTT sẽ góp phần nâng cao chất lượng, độ tin cậy của các bản định giá, từ đó, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong giao dịch thế chấp, chuyển nhượng hay góp vốn bằng tài sản SHTT.

Chín là, sửa đổi, bổ sung Điều 109 và Điều 114 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (khoản 36 và khoản 41 Điều 1 dự thảo Luật) để rút ngắn thời gian thẩm định đơn đăng ký sở hữu công nghiệp. Cụ thể, bổ sung quy định tại Điều 109 (khoản 36 Điều 1 dự thảo Luật) “thời gian thẩm định hình thức không quá 03 tháng, có thể gia hạn tối đa 01 tháng và phải thông báo bằng văn bản cho người nộp đơn”. Bổ sung quy định tại Điều 114 (khoản 41 Điều 1 dự thảo Luật) “thời gian thẩm định nội dung đơn sáng chế không quá 12 tháng, các loại đơn khác tối đa 06 tháng”. Việc này nhằm tăng tính minh bạch, bảo đảm quyền lợi người đăng ký và thúc đẩy đổi mới sáng tạo.

Mười là, sửa đổi, bổ sung dự thảo Luật để đồng bộ hóa, tích hợp hệ thống xử lý hồ sơ SHTT. Cụ thể, bổ sung một điều mới về hệ thống điện tử xử lý hồ sơ SHTT: “1. Cơ quan quản lý SHTT có trách nhiệm xây dựng, duy trì hệ thống điện tử tích hợp tiếp nhận, xử lý hồ sơ và cấp Giấy chứng nhận quyền SHTT. 2. Các nền tảng IP Lib, IPPlatform, ePatent được liên kết, đồng bộ, cập nhật tiến độ và thông tin hồ sơ minh bạch, dễ sử dụng. 3. Hệ thống bảo đảm minh bạch, bảo mật và dễ tiếp cận cho người nộp đơn”. Việc bổ sung này giúp nâng cao hiệu quả, minh bạch và thuận tiện trong quản lý hồ sơ SHTT.

Mười một là, bổ sung một điều mới vào dự thảo Luật quy định về bảo vệ quyền lợi tạm thời cho chủ sở hữu trong thời gian thẩm định hồ sơ đăng ký sở hữu công nghiệp. Cụ thể: “1. Trong thời gian thẩm định hồ sơ và trước khi cấp văn bằng bảo hộ, chủ đơn có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp bảo vệ tạm thời để ngăn chặn hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. 2. Biện pháp bảo vệ tạm thời được thực hiện theo quy định pháp luật về tố tụng dân sự và văn bản hướng dẫn thi hành. 3. Cơ quan quản lý sở hữu công nghiệp phối hợp với các cơ quan liên quan trong việc thực hiện biện pháp bảo vệ tạm thời”. Việc bổ sung quy định này giúp bảo vệ quyền lợi chủ sở hữu trong thời gian thẩm định, ngăn chặn xâm phạm trước khi cấp văn bằng bảo hộ.

Mười hai là, sửa đổi, bổ sung Điều 225 và Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 2015 để đưa ra tiêu chí rõ ràng, cụ thể về mức độ thiệt hại khi xử lý hình sự các hành vi xâm phạm SHTT. Cụ thể, bổ sung khoản 5 Điều 225 như sau: “5. Hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan bị xử lý hình sự trong các trường hợp chưa đạt mức thu lợi hoặc thiệt hại theo khoản 1 và 2: a) Gây thiệt hại thực tế cho chủ thể quyền từ 50 triệu đồng trở lên; b) Có dấu hiệu xâm phạm quyền lợi thương mại quy mô lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị trường, uy tín của chủ thể quyền hoặc quyền lợi người tiêu dùng”. Đồng thời, bổ sung nội dung tương tự vào khoản 5 Điều 226. Việc bổ sung các nội dung này tạo hành lang pháp lý rõ ràng, giúp kịp thời xử lý hành vi xâm phạm nghiêm trọng, nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền SHTT.

Mười ba là, bổ sung Nghị định số 46/2024/NĐ-CP các tiêu chí định lượng rõ ràng về số lượng sản phẩm xâm phạm, giá trị hàng giả, mức lợi bất chính, làm cơ sở để chuyển hồ sơ xâm phạm sang cơ quan điều tra hình sự. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung các tiêu chí này trong Nghị định số 46/2024/NĐ-CP như sau: “Cần thiết lập các tiêu chí định lượng rõ ràng, cụ thể về số lượng sản phẩm vi phạm, giá trị hàng giả và các yếu tố liên quan để xác định mức độ vi phạm, làm căn cứ chuyển hồ sơ vụ việc nghiêm trọng sang cơ quan điều tra hình sự khi cần thiết”. Việc bổ sung tiêu chí định lượng này giúp nâng cao tính khách quan, minh bạch trong xử phạt vi phạm hành chính, đồng thời, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc xử lý hình sự các hành vi xâm phạm SHTT nghiêm trọng.

Kết luận

Trong bối cảnh kinh tế tri thức và chuyển đổi số phát triển, quyền SHTT đóng vai trò then chốt trong bảo vệ đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Tuy nhiên, pháp luật SHTT tại Việt Nam còn nhiều hạn chế như thủ tục đăng ký phức tạp, xử lý vi phạm chưa hiệu quả, bảo vệ bí mật kinh doanh chưa phù hợp với môi trường số, giám định thiếu đồng bộ, vi phạm bản quyền trực tuyến khó kiểm soát. Những tồn tại này ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng bảo vệ tài sản trí tuệ, đặc biệt với doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và startup. Do đó, cần hoàn thiện pháp luật, cập nhật chuyển đổi số, tăng cường thực thi nhanh chóng, minh bạch./.

ThS. Nguyễn Thị Hiền Thương

Giảng viên thỉnh giảng tại Thành phố Hồ Chí Minh

Ảnh: internet

[1]. World Intellectual Property Organization (2001), Intellectual Property Needs and Expectations of Traditional Knowledge Holders: WIPO Report on Fact-Finding Missions on Intellectual Property and Traditional Knowledge (1998 - 1999), https:// www.wipo.int/edocs/pubdocs/en/tk/768/wipo_pub_768.pdf, truy cập ngày 31/10/2025.

[2]. Moore, A. D., & Himma, K. E. (2022), Intellectual Property, Stanford Encyclopedia of Philosophy, https://plato.stanford.edu/ entries/intellectual-property/, truy cập ngày 31/10/2025.

[3]. National Academies of Sciences, Engineering, and Medicine (2009), On being a scientist: A guide to responsible conduct in research : Third Edition, National Academies Press, https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK214554/, truy cập ngày 31/10/2025.

[4]. Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.

[5]. Báo Điện tử Chính phủ (2025), Tổng thuật: Hội nghị toàn quốc quán triệt triển khai Nghị quyết 66-NQ/TW và Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị. Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/hoi-nghi-toan-quoc-quan-triet-trien-khai-nghi-quyet-66-va-nghi-quyet-68-cua-bo-chinh-tri-119250517213032536.htm , truy cập ngày 31/10/2025.

[6]. OECD(2019), OECD SME and Entrepreneurship Outlook 2019, OECD Publishing, https://doi.org/10.1787/34907e9c-en, truy cập ngày 30/10/2025.

[7]. PR Newswire (2024), Vinamilk Shares Its Innovation and Sustainability Strategy at Global Dairy Congress 2024, https://www.prnewswire.com/news-releases/vinamilk-shares-its-innovation-and-sustainability-strategy-at-global-dairy-congress-2024-302197945.html, truy cập ngày 30/10/2025.

[8]. Vietnam Chamber of Commerce and Industry (2025), Portrait of a new generation of businesses, https://en.vcci.com.vn/portrait-of-a-new-generation-of-businesses, truy cập ngày 30/10/2025.

[9]. World Intellectual Property Organization (n.d.), Valuing intellectual property assets, WIPO, https://www.wipo.int/en/web/business/ip-valuation, truy cập ngày 31/10/2025.

[10]. Ménière, Y., Rudyk, I., Grilli, M., Wajsman, N., Kazimierczak, M., & Arias Burgos, C (2021), Intellectual property rights and firm performance in the European Union: Firm-level analysis report, European Patent Office & European Union Intellectual Property Office, https://www.impforum.org/wp-content/uploads/2021/03/2021_IP_Rights_and_firm_performance_in_the_EU_ en.pdf , truy cập ngày 31/10/2025.

[11]. KPMG (n.d), Realizing value from the intangible: How to manage intellectual property as a business asset, KPMG, https://kpmg.com/us/en/articles/2023/realizing-value-intangible.html, truy cập ngày 31/10/2025.

[12]. World Intellectual Property Organization (2024), New WIPO data show intangible asset investment growing fast, spreading globally, https://www.wipo.int/pressroom/en/articles/2024/article_0008.html, truy cập ngày 31/10/2025.

[13]. TS. Hà Thị Nguyệt Thu (2017), Hoàn thiện pháp luật về xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, https://vannghiep.vn/wp-content/uploads/2018/01/Ho%C3%A0n-thi%E1%BB%87n-ph%C3%A1p-lu%E1%BA%ADt-v%E1%BB%81-x%E1%BB%AD-l%C3%BD-h%C3%A0nh-vi-x%C3%A2m-ph%E1%BA%A1m-quy%E1%BB%81n-s%E1%BB%9F-h%E1%BB%AFu-c%C3%B4ng-nghi%E1%BB%87p- %C4%91%E1%BB%91i-v%E1%BB%9Bi-nh%C3%A3n-hi%E1%BB%87u-%E1%BB%9F-Vi%E1%BB%87t-Nam-ts.pdf, truy cập ngày 31/10/2025.

[14]. ThS. Vũ Chi Mai (2025), Thực trạng và giải pháp giải quyết tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động thương mại điện tử tại Việt Nam, Tạp chí Tòa án Nhân dân điện tử, https://tapchitoaan.vn/thuc-trang-va-giai-phap-giai-quyet-tinh-trang-xam-pham-quyen-so-huu-tri-tue-trong-hoat-dong-thuong-mai-dien-tu-tai-viet-nam13291.html, truy cập ngày 31/10/2025.

[15]. Dự thảo 6 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2025 trình Quốc hội ngày 27/10/2025. https://duthaoonline.quochoi.vn/dt/luat-sua-doi-bo-sung-mot-so-dieu-cua-luat-so-huu-tri-tue/250923111514073561, truy cập ngày 02/11/2025.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Thị Bích Hằng (2022), Hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Tạp chí Tài chính, tập 102, số 7.

2. Lê Minh Cường (2023), Khai thác kinh tế tài sản trí tuệ - Kinh nghiệm quốc tế và giải pháp cho Việt Nam, https://phaply.net.vn/khai-thac-kinh-te-tai-san-tri-tue-kinh-nghiem-quoc-te-va-giai-phap-cho-viet-nam-a256422.html, truy cập ngày 30/10/2025.

3. Ban Biên tập (2024), Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (Kỳ 2): Giải pháp nâng cao hiệu quả tại Việt Nam, https:// diendandoanhnghiep.vn/bao-ve-quyen-so-huu-tri-tue-ky-2-giai-phap-nang-cao-hieu-qua-tai-viet-nam-10157378.html, truy cập ngày 30/10/2025.

4. Nguyễn Thị Lan Anh (2023), Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, https://baomoi.com/mot-so-giai-phap-hoan-thien-phap-luat-nham-thuc-day-phat-trien-kinh-te-tu-nhan-c52331151.epi, truy cập ngày 30/10/2025.

5. Phạm Văn Dũng (2022), Khu vực kinh tế tư nhân: Thực trạng và giải pháp, https://kinhtevadubao.vn/khu-vuc-kinh-te-tu-nhan-thuc-trang-va-giai-phap-20687.html, truy cập ngày 30/10/2025.

6. Nguyen, N. T. H., Ha, L. T., & Linh, N. Q. (2022), Analysis on Intellectual Property Management Policies for Vietnam Start-up Businesses, VNU Journal of Science Policy and Management Studies, 38(4).

7. Que Anh, N. T. (2022), Improving Vietnamese Intellectual Property Law in the Context of Developing Artificial Intelligence, VNU Journal of Science: Legal Studies, 38(3).

8. Nguyen, K. P. (2021), Protecting Intellectual Property Rights in Vietnam: Opportunities and Challenges, In Challenges of Governance.

9. OECD, (2021), SME and Entrepreneurship Policy in Viet Nam, https://www.oecd.org/en/publications/sme-and-entrepreneurship-policy-in-viet-nam_30c79519-en.html, truy cập ngày 30/10/2025.

10. Tô Thị Phương Dung (2024), Vietnam IP Resources: Free Government Support for Businesses,https://luatminhkhue. vn/en/vietnam-ip-resources-free-government-support-for-businesses.aspx?utm_source, truy cập ngày 30/10/2025.

11. Startup Vietnam Foundation & MOST, (2023), When Creativity Meets Business: Enhancing Startup Brand Value through IP, https://nssc.gov.vn/startup-stories/insights/when-creativity-meets-business-enhancing-startup-brand-value-through-intellectual-property/, truy cập ngày 30/10/2025.

12. APEC (2007), Protecting Intellectual Property Rights for SMEs in APEC, https://www.apec.org, truy cập ngày 30/10/2025.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số Kỳ 2 (441) tháng 11/2025))

Tin bài có thể bạn quan tâm

Mô hình sandbox thúc đẩy đổi mới công nghệ trong khuôn khổ pháp luật về sở hữu trí tuệ - kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam

Mô hình sandbox thúc đẩy đổi mới công nghệ trong khuôn khổ pháp luật về sở hữu trí tuệ - kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam

Tóm tắt: Trong bối cảnh Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) ngày càng được quan tâm như một công cụ chính sách quan trọng nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển công nghệ. Tuy nhiên, việc áp dụng sandbox tại Việt Nam đặt ra nhiều thách thức pháp lý, đặc biệt trong lĩnh vực bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với các sáng chế, bí mật kinh doanh và các tài sản trí tuệ phát sinh trong giai đoạn thử nghiệm. Bài viết nghiên cứu, phân tích, tổng hợp và so sánh luật học để: (i) làm rõ khái niệm và đặc trưng của mô hình sandbox; (ii) đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam liên quan đến cơ chế này trong mối quan hệ với pháp luật sở hữu trí tuệ; (iii) đối chiếu với kinh nghiệm lập pháp và thực tiễn triển khai tại Vương quốc Anh, Singapore, Kenya và Hàn Quốc. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù sandbox mang lại nhiều cơ hội cho đổi mới sáng tạo, tuy nhiên, hiện, pháp luật Việt Nam còn thiếu quy định cụ thể để bảo vệ đầy đủ quyền sở hữu trí tuệ trong môi trường thử nghiệm. Điều này tiềm ẩn nguy cơ tranh chấp và xung đột lợi ích giữa các chủ thể tham gia. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất xây dựng khuôn khổ pháp lý đồng bộ cho sandbox, trong đó bảo đảm sự cân bằng giữa khuyến khích đổi mới và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan, qua đó, tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho phát triển công nghệ bền vững tại Việt Nam.
Rủi ro trong ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào công tác xây dựng pháp luật - kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam

Rủi ro trong ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào công tác xây dựng pháp luật - kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam

Tóm tắt: Ứng dụng trí tuệ nhân tạo mang lại những lợi ích to lớn, trở thành xu thế tất yếu của nhiều quốc gia, các ngành, lĩnh vực, trong đó có công tác xây dựng pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, ứng dụng trí tuệ nhân tạo cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro phát sinh. Bài viết phân tích các rủi ro và các hệ quả pháp lý có thể phát sinh khi ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong xây dựng pháp luật. Trên cơ sở làm rõ mối quan hệ giữa quản trị rủi ro và trách nhiệm pháp lý, tham chiếu kinh nghiệm của Liên minh châu Âu, Hàn Quốc, bài viết đề xuất một số giải pháp cho Việt Nam để thiết lập cơ chế kiểm soát, phòng ngừa rủi ro và xác lập cơ chế trách nhiệm rõ ràng giữa các chủ thể khi ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong xây dựng pháp luật bảo đảm an toàn, minh bạch, có trách nhiệm.
Điều chỉnh pháp luật về trí tuệ nhân tạo - Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở cho Việt Nam từ sự xuất hiện của ChatGPT

Điều chỉnh pháp luật về trí tuệ nhân tạo - Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở cho Việt Nam từ sự xuất hiện của ChatGPT

Tóm tắt: Sự xuất hiện của ChatGPT như một hiện tượng công nghệ gắn liền với sự phát triển của kinh tế dữ liệu và kinh tế tư nhân. Bài viết nghiên cứu, đánh giá và dự báo những nguy cơ mà ChatGPT có thể gây ra đối với Việt Nam, đặc biệt liên quan đến quản lý dữ liệu, an ninh mạng, phát triển nhân lực số và vận hành hạ tầng công nghệ. Đồng thời, bài viết tham khảo kinh nghiệm pháp luật và quản trị ChatGPT tại một số quốc gia như Cộng hòa Liên bang Đức và Hoa Kỳ, từ đó, đưa ra các khuyến nghị chính sách nhằm xây dựng khuôn khổ quản lý phù hợp cho Việt Nam, vừa thúc đẩy đổi mới sáng tạo, vừa bảo đảm an toàn và phát triển bền vững.
Quốc hội thông qua Luật Thương mại điện tử: Tạo cơ chế quản lý chặt chẽ các hoạt động thương mại điện tử

Quốc hội thông qua Luật Thương mại điện tử: Tạo cơ chế quản lý chặt chẽ các hoạt động thương mại điện tử

Theo chương trình làm việc tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, sáng ngày 10/12, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Thương mại điện tử.
Quốc hội thông qua Luật An ninh mạng

Quốc hội thông qua Luật An ninh mạng

Sáng 10/12, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương, Quốc hội thông qua Luật An ninh mạng với đa số đại biểu tán thành (chiếm tỉ lệ 91,75%). Theo đó, Luật có nhiều điểm mới, đã bổ sung quy định về hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm mạng, các biện pháp bảo vệ an ninh mạng; bổ sung quy định bảo vệ nhóm yếu thế trên không gian mạng, trẻ em, người cao tuổi và người gặp khó khăn về nhận thức.
Phụ nữ trong thời đại chuyển đổi số và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Phụ nữ trong thời đại chuyển đổi số và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Đây là chủ đề của Hội thảo khoa học quốc gia do Học viện Phụ nữ Việt Nam phối hợp với Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức ngày 08/12/2025. Tham dự Hội thảo có đại diện các cơ quan, tổ chức cùng các chuyên gia, nhà khoa học.
Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Tóm tắt: Kỷ nguyên số đã và đang tạo nhiều cơ hội để tiếp cận các tác phẩm ngày càng dễ dàng hơn với nhiều phương thức khác nhau. Tuy nhiên, thời đại kỷ nguyên số cũng đặt ra không ít thách thức trong việc bảo hộ quyền tác giả như sự xuất hiện của những loại hình tác phẩm mới, sự ra đời của những tác phẩm do trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra, sự gia tăng nhanh chóng của các hành vi xâm phạm với sự trợ giúp đắc lực của mạng internet cùng các công nghệ mới… Bài viết phân tích những thách thức về bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số, đồng thời đề xuất một số giải pháp cho Việt Nam về vấn đề này.
Thúc đẩy tiến độ hoàn thành các cơ sở dữ liệu và nền tảng số của Bộ Tư pháp

Thúc đẩy tiến độ hoàn thành các cơ sở dữ liệu và nền tảng số của Bộ Tư pháp

Sáng ngày 05/12/2025, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh, Trưởng Ban Chỉ đạo của Bộ Tư pháp về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và Đề án 06 chủ trì cuộc họp giao ban tuần của Ban Chỉ đạo. Cùng dự cuộc họp có Thứ trưởng Bộ Tư pháp Mai Lương Khôi, Phó Trưởng ban Ban Chỉ đạo; Phó Bí thư chuyên trách Đảng ủy Nguyễn Quang Thái, Phó trưởng Ban Chỉ đạo.
Hoàn thiện, thống nhất khung pháp lý về an ninh mạng

Hoàn thiện, thống nhất khung pháp lý về an ninh mạng

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công an đã xây dựng hồ sơ đề nghị xây dựng Luật An ninh mạng theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Dự thảo Luật gồm 09 chương với 58 điều, đang được thảo luận tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV; đã có 70 lượt đại biểu phát biểu ý kiến tại tổ (ngày 31/10/2025), 15 lượt đại biểu phát biểu tại hội trường (ngày 06/11/2025) và 05 Đoàn đại biểu Quốc hội gửi ý kiến bằng văn bản.
Đề xuất chuyển đổi số toàn diện trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch

Đề xuất chuyển đổi số toàn diện trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch

Ngày 02/12/2025, Bộ Tư pháp tổ chức Hội đồng thẩm định Hồ sơ chính sách Luật Hộ tịch (sửa đổi) do Thứ trưởng Bộ Tư pháp Phan Chí Hiếu chủ trì. Tham dự phiên họp có các thành viên của Hội đồng thẩm định là đại diện của các cơ quan: Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao; Bộ Nội vụ; Bộ Tài chính; Bộ Khoa học và Công nghệ; Sở Tư pháp thành phố Hà Nội; Sở Tư pháp tỉnh Bắc Ninh; Ủy ban nhân dân phường Giảng Võ… và đại diện một số cơ quan thuộc Bộ Tư pháp.
Triển khai kịp thời, thống nhất việc rà soát, chuẩn hóa toàn bộ thủ tục hành chính ở 03 cấp chính quyền

Triển khai kịp thời, thống nhất việc rà soát, chuẩn hóa toàn bộ thủ tục hành chính ở 03 cấp chính quyền

Ngày 01/12/2025, Bộ Tư pháp tổ chức Hội nghị toàn quốc hướng dẫn thống kê, rà soát thủ tục hành chính ở 03 cấp chính quyền do Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh chủ trì. Hội nghị được tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến, kết nối từ điểm cầu chính tại trụ sở Bộ Tư pháp tới 34 điểm cầu của các địa phương trên cả nước.
Cần thiết ban hành Luật An ninh mạng đáp ứng yêu cầu phát triển mới về công nghệ số

Cần thiết ban hành Luật An ninh mạng đáp ứng yêu cầu phát triển mới về công nghệ số

Nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về bảo vệ an ninh quốc gia, phát triển kinh tế số, chuyển đổi số quốc gia, khắc phục sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa Luật An toàn thông tin mạng năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2018) và Luật An ninh mạng năm 2018, dự án Luật An ninh mạng đã được xây dựng trên cơ sở hợp nhất 02 luật nêu trên và đang được Quốc hội khóa XV xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 10.
Ủy ban nhân dân xã Mê Linh tập huấn ứng dụng “AI Trợ lý Luật Việt Nam” nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong quản lý nhà nước

Ủy ban nhân dân xã Mê Linh tập huấn ứng dụng “AI Trợ lý Luật Việt Nam” nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong quản lý nhà nước

Ngày 29/11/2025, tại Hà Nội, Ủy ban nhân dân xã Mê Linh tổ chức Hội nghị "Tập huấn, hướng dẫn AI Trợ lý Luật Việt Nam cho cán bộ, công chức, viên chức xã Mê Linh”.
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo tạo sinh trong đào tạo luật - Cơ hội, thách thức và một số giải pháp

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo tạo sinh trong đào tạo luật - Cơ hội, thách thức và một số giải pháp

Tóm tắt: Bài viết phân tích cơ hội và thách thức đặt ra cho hoạt động đào tạo luật trong bối cảnh trí tuệ nhân tạo tạo sinh đang phát triển nhanh và tác động mạnh mẽ đến giáo dục pháp luật. Từ việc nhận diện các yêu cầu đổi mới theo định hướng của Đảng và Nhà nước, nghiên cứu đánh giá tiềm năng ứng dụng của trí tuệ nhân tạo tạo sinh trong đào tạo luật; đồng thời, chỉ ra những rủi ro liên quan như gian lận học thuật, sai lệch thông tin, định kiến thuật toán và các vấn đề đạo đức, pháp lý. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất các giải pháp hoàn thiện khi tích hợp trí tuệ nhân tạo tạo sinh trong đào tạo luật tại Việt Nam.
Rà soát thủ tục hành chính thuộc phạm vi quản lý của Bộ, ngành, địa phương ở ba cấp chính quyền

Rà soát thủ tục hành chính thuộc phạm vi quản lý của Bộ, ngành, địa phương ở ba cấp chính quyền

Ngày 26/11/2025, Bộ Tư pháp tổ chức cuộc họp Tổ công tác liên ngành rà soát, đánh giá thủ tục hành chính trên phạm vi toàn quốc. Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh, Tổ trưởng Tổ công tác liên ngành chủ trì cuộc họp. Thứ trưởng Nguyễn Thanh Tịnh, Tổ phó Tổ công tác liên ngành cùng dự.

Theo dõi chúng tôi trên: