Từ khóa: thi hành án dân sự; doanh nghiệp; pháp luật thi hành án; bảo vệ doanh nghiệp; kinh tế tư nhân; hoàn thiện pháp luật.
Abstract: Fast and effective enforcement of civil judgments contributes to protecting the legitimate rights of relevant parties and building a fair business environment. To protect the rights of enterprises and promote healthy business activities, this article studies, analyzes and evaluates current legal regulations on the order and procedures for enforcement of civil judgments against enterprises, pointing out limitations and shortcomings that may hinder business activities. On that basis, it proposes solutions to improve the law on enforcement of civil judgments in the direction of both ensuring the performance of enforcement obligations and creating conditions for enterprises to recover and develop production and business, contributing to promoting the sustainable development of the private economic sector in the current context.
Keywords: Enforcement of civil judgments; enterprises; judgment enforcement law; protection of enterprises; private economy; improvement of the law.
Đặt vấn đề
Trong bối cảnh sau dịch bệnh Covid-19 và những biến động chính trị toàn cầu làm gia tăng chi phí kinh doanh, thu hẹp thị trường, nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam rơi vào tình trạng khó khăn, mất khả năng thanh toán, phải rút khỏi thị trường. Theo thống kê, trong Quý I năm 2025, có khoảng 78.900 doanh nghiệp chấm dứt hoạt động[1] và số lượng doanh nghiệp trở thành đối tượng phải thi hành án dân sự (THADS) gia tăng, chủ yếu liên quan đến nghĩa vụ trả nợ cho các tổ chức tín dụng.
Đồng thời, yêu cầu thu hồi tài sản trong công tác phòng, chống tham nhũng cũng làm gia tăng khối lượng THADS đối với doanh nghiệp. Nhiều vụ việc THADS có giá trị lớn, như vụ Công ty cổ phần Tập đoàn Tân Hoàng Minh (hơn 8.600 tỷ đồng), Công ty cổ phần Tập đoàn Vạn Thịnh Phát (trên 53.000 tỷ đồng), Công ty cổ phần Địa ốc Alibaba, Công ty cổ phần Công nghệ Việt Á hay Công ty cổ phần Tập đoàn FLC. Điều này cho thấy tính phức tạp của việc xử lý thi hành án đối với doanh nghiệp[2].
Theo quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022, 2024 (Luật Thi hành án dân sự năm 2008), doanh nghiệp với tư cách là người phải thi hành án sẽ chịu sự điều chỉnh chung về trình tự, thủ tục giống các chủ thể phải thi hành án khác. Quy định này bảo đảm nguyên tắc bình đẳng và thuận tiện cho cơ quan thi hành án dân sự. Tuy nhiên, cách tiếp cận này chủ yếu tập trung vào việc bảo đảm hiệu lực bản án, quyết định[3], mà chưa quan tâm đầy đủ đến tác động của biện pháp thi hành án đối với hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng phục hồi của doanh nghiệp.
Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân (Nghị quyết số 68-NQ/TW) đã khẳng định vai trò trung tâm của khu vực kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế quốc gia. Kinh tế tư nhân được xác định là động lực quan trọng, có vai trò tiên phong trong tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng lực cạnh tranh và giữ vị trí nòng cốt trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, Nhà nước cam kết tiếp tục khuyến khích và tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển bền vững[4].
Tuy nhiên, thực tiễn THADS đối với doanh nghiệp, đặc biệt, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm, cưỡng chế, kê biên tài sản sản xuất, có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh, việc làm và an sinh xã hội, thậm chí gây mất ổn định xã hội[5]. Do đó, việc nghiên cứu, hoàn thiện quy định pháp luật về THADS gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là yêu cầu cấp thiết để vừa bảo đảm hiệu lực thi hành bản án, vừa tạo điều kiện phục hồi và phát triển doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển bền vững.
1. Một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh
Thứ nhất, bất cập trong quy định về quyền lựa chọn của doanh nghiệp trong áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế trong thi hành án dân sự.
Trong THADS, biện pháp bảo đảm được áp dụng để ngăn chặn việc tẩu tán hoặc hủy hoại tài sản; biện pháp cưỡng chế được thực hiện khi người phải thi hành án có điều kiện nhưng không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ[6]. Đối với doanh nghiệp, hai loại biện pháp này thường triển khai trên quy mô lớn, liên quan đến nhiều loại tài sản khác nhau. Thực tiễn từ các vụ án lớn như Công ty cổ phần Tập đoàn Vạn Thịnh Phát hay Công ty cổ phần Địa ốc Alibaba cho thấy, cơ quan thi hành án dân sự phải kê biên hàng trăm bất động sản, phương tiện vận tải, máy móc và dữ liệu điện tử, gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh[7].
Về mặt pháp lý, khoản 4 và khoản 5 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự (Nghị định số 62/2015/NĐ-CP) đưa ra nguyên tắc nhằm giảm thiểu ảnh hưởng bất lợi: (i) cho phép người phải thi hành án đề nghị kê biên tài sản cụ thể nếu tài sản đó đủ để thực hiện nghĩa vụ; (ii) chỉ kê biên tài sản khác của doanh nghiệp khi các nguồn tài sản lưu động như tài khoản, vàng, bạc, đá quý, giấy tờ có giá đã được xử lý nhưng vẫn không đủ để thi hành án. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng cho thấy, các quy định này còn hạn chế, bất cập chưa tạo cơ chế bảo vệ hữu hiệu, dẫn đến tình trạng doanh nghiệp ở thế bị động, nhiều khi bị kê biên cả tài sản thiết yếu cho hoạt động sản xuất. Cụ thể:
- Pháp luật chưa quy định cơ chế cho phép doanh nghiệp lựa chọn biện pháp hoặc loại tài sản kê biên nhằm thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Hiện, việc lựa chọn biện pháp hoặc loại tài sản hoàn toàn thuộc thẩm quyền của chấp hành viên. Đồng thời, pháp luật mới quy định ưu tiên xử lý tài sản lưu động, chưa quy định doanh nghiệp được quyền lựa chọn trước phương án khả thi để thi hành án làm cho doanh nghiệp hoàn toàn bị động và không phù hợp với thực tế hoạt động của doanh nghiệp. Trong khi đó, nếu có cơ chế pháp lý để doanh nghiệp phải thi hành án được tham gia lựa chọn (trong giới hạn bảo đảm nghĩa vụ thi hành án) thì sẽ giảm thiểu rủi ro cho sản xuất và bảo đảm lợi ích của người được thi hành án.
- Pháp luật chưa có tiêu chí để xác định “tư liệu sản xuất thiết yếu” cần được giữ lại nhằm duy trì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định về định nghĩa hoặc tiêu chí pháp lý để phân biệt loại tài sản này, dẫn đến tình trạng áp dụng không thống nhất giữa các cơ quan thi hành án. Thực tế cho thấy, cùng một loại tài sản, có cơ quan thi hành án coi là thiết yếu, hạn chế kê biên, nhưng có cơ quan thi hành án khác lại xử lý như tài sản thông thường. Hệ quả, doanh nghiệp có thể bị kê biên cả những tài sản then chốt, dẫn đến đình trệ hoạt động sản xuất. Đồng thời, doanh nghiệp cũng không có căn cứ pháp lý vững chắc để khiếu nại khi bị kê biên nhầm vào nhóm tài sản thiết yếu.
- Pháp luật chưa quy định cơ chế kiểm soát và nghĩa vụ giải trình đối với chấp hành viên khi từ chối đề xuất hoặc khi quyết định kê biên tài sản gắn với hoạt động sản xuất. Hiện, pháp luật chưa quy định chấp hành viên phải giải thích lý do tại sao từ chối đề xuất của doanh nghiệp và cũng không bắt buộc phải báo cáo cấp trên khi kê biên tài sản gắn liền với sản xuất. Việc thiếu quy định này làm cho quyền đề nghị lựa chọn tài sản kê biên của doanh nghiệp chỉ tồn tại trên phương diện hình thức. Đồng thời, hoạt động lựa chọn biện pháp và tài sản kê biên thiếu minh bạch, khó kiểm soát và tiềm ẩn nguy cơ lạm quyền.
Có thể khẳng định, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP đã thể hiện tinh thần bảo vệ hoạt động của doanh nghiệp thông qua quy định nguyên tắc ưu tiên xử lý tài sản lưu động và cơ chế đề nghị trong trường hợp tự nguyện. Tuy nhiên, do mới quy định ở mức nguyên tắc, chưa có cơ chế, thủ tục và chuẩn mực nội dung cụ thể nên các quy định này chưa tạo được sự cân bằng hợp lý giữa yêu cầu bảo đảm hiệu lực của bản án với việc duy trì ổn định hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp phải thi hành án.
Thứ hai, bất cập trong quy định về cung cấp thông tin cho báo chí trong thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp.
Trong THADS, công khai thông tin là nguyên tắc quan trọng nhằm bảo đảm tính minh bạch và tạo điều kiện cho các bên liên quan giám sát quá trình tổ chức thi hành án. Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định nhiều hình thức công khai như niêm yết quyết định, thông báo về việc kê biên và xử lý tài sản hay công bố danh sách người chưa có điều kiện thi hành án[8], góp phần bảo đảm tính pháp chế và nâng cao trách nhiệm của cơ quan thi hành án.
Bên cạnh đó, hoạt động cung cấp thông tin còn chịu sự điều chỉnh của Luật Báo chí năm 2016. Khoản 1 Điều 38 Luật Báo chí năm 2016 quy định: “trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của mình, các cơ quan, tổ chức, người có trách nhiệm có quyền và nghĩa vụ cung cấp thông tin cho báo chí và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin đã cung cấp. Việc cung cấp thông tin cho báo chí có thể bằng văn bản, trên trang thông tin điện tử tổng hợp, họp báo, trả lời phỏng vấn và các hình thức khác”. Trên thực tế, đối với những vụ việc trọng điểm có quy mô lớn, cơ quan THADS thường ban hành thông cáo báo chí để thông tin về tiến trình và kết quả tổ chức thi hành án. Ví dụ, trong vụ án Vạn Thịnh Phát, Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh (nay là Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh) đã nhiều lần công bố thông cáo, gần nhất là Thông cáo số 8206/TB-CTHADS ngày 25/6/2025 về kết quả tổ chức thi hành vụ án Trương Mỹ Lan và đồng phạm (giai đoạn 1 và giai đoạn 2)[9].
Thực tiễn cho thấy, hoạt động cung cấp thông tin của cơ quan THADS cho báo chí chưa kịp thời, thiếu tính chủ động; việc xử lý thông tin báo chí chưa chính xác, còn chậm, lúng túng, thiếu dứt điểm dẫn đến tình trạng có sự việc bị đề cập lại nhiều lần[10]. Mặt khác, khi áp dụng đối với doanh nghiệp, cơ chế công khai thông tin còn tồn tại một số hạn chế như: (i) phạm vi công khai thông tin chưa được phân định rõ, dẫn đến tình trạng một số thông tin nhạy cảm của doanh nghiệp như thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh bị phổ biến rộng rãi mà không có giới hạn cần thiết; (ii) trong bối cảnh truyền thông phát triển mạnh mẽ, thông tin về doanh nghiệp thi hành án thường nhanh chóng lan truyền trên báo chí, mạng xã hội, dễ bị cắt xén hoặc diễn giải theo hướng bất lợi. Điều này làm cho doanh nghiệp phải thi hành án dễ bị gắn với hình ảnh mất khả năng thanh toán, vi phạm pháp luật hoặc giảm uy tín trong quan hệ thương mại.
Đặc biệt, trong khi cơ quan thi hành án có quyền chủ động cung cấp thông tin cho báo chí theo Luật Báo chí năm 2016 và đã thực hiện điều này trong nhiều vụ việc, thì doanh nghiệp (đối tượng chịu tác động trực tiếp) lại không có quyền pháp lý để yêu cầu công bố thông tin chính thức nhằm bảo vệ mình trước dư luận, làm cho doanh nghiệp rơi vào thế bị động, đặc biệt, trong các vụ án lớn khi thông tin trên mạng xã hội lan truyền nhanh hơn nhiều so với thông tin chính thức từ cơ quan nhà nước.
Như vậy, bất cập trong cơ chế công khai thông tin hiện nay không chỉ ở phạm vi công khai quá rộng và thiếu phân loại, mà còn ở việc doanh nghiệp chưa có công cụ pháp lý để phản hồi hoặc yêu cầu cung cấp thông tin chính thức, nhằm hạn chế tác động tiêu cực đến uy tín và hoạt động kinh doanh.
Thứ ba, bất cập trong quy định về việc tạm giao quản lý, khai thác, sử dụng tài sản kê biên của doanh nghiệp.
Trong THADS, tài sản của doanh nghiệp bị kê biên thường đa dạng và có quy mô lớn, trong đó, nhiều loại tài sản là tư liệu sản xuất trực tiếp. Chẳng hạn, việc kê biên tài sản của Công ty cổ phần Thép Việt Pháp, gồm hệ thống máy móc, thiết bị (cẩu trục nhiều tải trọng, cân ô tô điện tử, dây chuyền đúc phôi thép, hệ thống oxy, hệ thống xử lý nước thải, quạt công nghiệp, mô tơ, hệ thống khí thải…) cùng toàn bộ hạ tầng nhà xưởng và văn phòng (nhà xưởng chính, kho, nhà văn phòng, đường nội bộ, bể nước, nhà ăn, nhà để xe, cây xanh…)[11], trong đó, nhiều tài sản đang phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Vấn đề đặt ra, sau khi bị kê biên, doanh nghiệp có được tiếp tục sử dụng các tài sản này để duy trì sản xuất hay không.
Bảo quản tài sản thi hành án là việc giao cho một chủ thể trông coi, giữ gìn tài sản thi hành án, nhằm bảo đảm chất lượng và giá trị sử dụng của tài sản[12]. Về mặt pháp lý, Điều 58 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định về bảo quản tài sản thi hành án, doanh nghiệp là người phải thi hành án cũng là một trong những chủ thể được cơ quan THADS giao bảo quản tài sản. Tuy nhiên, quy định về bảo quản tài sản thi hành án chỉ quy định những vấn đề mang tính hình thức như: căn cứ xác lập việc bảo quản, chi phí phát sinh, nghĩa vụ pháp lý và hậu quả pháp lý khi vi phạm nghĩa vụ bảo quản. Đối với nội dung, doanh nghiệp được giao bảo quản có tiếp tục khai thác, sử dụng tài sản trong thời gian bảo quản hay không thì pháp luật chưa quy định chi tiết. Hiện, việc tạm giao quản lý, khai thác, sử dụng đối với tài sản sau khi kê biên chỉ áp dụng đối với tài sản là diện tích đất và phương tiện giao thông sau khi kê biên[13]. Các quy định trên chưa làm rõ các điều kiện, phạm vi tạm giao tài sản, cũng như giới hạn trong việc khai thác, sử dụng tài sản sau khi kê biên nên thực tiễn thi hành án tồn tại một số bất cập sau:
- Quy định về điều kiện và phạm vi tạm giao tài sản còn thiếu cụ thể. Hiện, pháp luật chưa quy định rõ loại tài sản nào được phép tạm giao, căn cứ nào để quyết định, thời hạn tạm giao là bao lâu và cơ chế giám sát việc sử dụng tài sản như thế nào. Vì vậy, cách làm giữa các chấp hành viên và các cơ quan thi hành án không thống nhất, dẫn đến tình trạng tùy nghi áp dụng.
- Quy định “giữ nguyên hiện trạng tài sản kê biên” được áp dụng quá cứng nhắc. Khi giao bảo quản tài sản, chấp hành viên xác lập nghĩa vụ của người được giao bảo quản tài sản không được làm thay đổi hiện trạng tài sản đến khi có quyết định của cơ quan có thẩm quyền[14]. Quy định này nhằm bảo đảm sự ổn định về mặt pháp lý của tài sản trong quá trình thi hành án. Trên thực tế, quá trình xử lý tài sản thường kéo dài, nhiều máy móc hoặc công trình hạ tầng, nhất là phương tiện giao thông nếu không được bảo trì, sửa chữa sẽ nhanh chóng hư hỏng. Tuy nhiên, hoạt động sửa chữa, bảo dưỡng thường làm thay đổi hiện trạng so với thời điểm kê biên. Nếu cấm tuyệt đối việc thay đổi hiện trạng, doanh nghiệp gặp khó trong việc duy trì hoạt động, trong khi giá trị tài sản có nguy cơ bị giảm sút.
- Thiếu cơ chế kiểm soát việc khai thác tài sản kê biên dẫn đến nguy cơ làm giảm giá trị tài sản. Nếu doanh nghiệp không được phép sửa chữa, tài sản có thể xuống cấp, mất giá khi đưa ra bán đấu giá. Ngược lại, nếu cho phép khai thác nhưng không có quy định giám sát chặt chẽ, doanh nghiệp có thể sử dụng sai mục đích, làm hao mòn, thất thoát hoặc ảnh hưởng đến giá trị của tài sản.
Như vậy, bất cập chính hiện nay là pháp luật chưa quy định cụ thể và cân bằng để vừa bảo đảm quyền quản lý, khai thác hợp lý của doanh nghiệp đối với tài sản sản xuất, vừa duy trì cơ chế kiểm soát để bảo toàn giá trị tài sản trước khi xử lý.
2. Kiến nghị hoàn thiện
Để bảo đảm hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thúc đẩy kinh tế phát triển và thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân sự, cần phải hoàn thiện pháp luật về THADS gắn với hoạt động của doanh nghiệp. Cụ thể:
Thứ nhất, quy định quyền lựa chọn của doanh nghiệp trong áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế trong thi hành án dân sự.
Doanh nghiệp là chủ thể giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Năm 2024, khu vực này đã đóng góp khoảng 60% GDP, chiếm 98% kim ngạch xuất khẩu và tạo việc làm cho 85% lực lượng lao động cả nước[15]. Khi trở thành đối tượng THADS, doanh nghiệp vẫn cần có cơ chế bảo đảm duy trì hoạt động sản xuất để tránh gây tác động dây chuyền đến thị trường và xã hội. Để khắc phục những hạn chế đó, cần sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự năm 2008 theo hướng:
- Bổ sung quy định trao cho doanh nghiệp quyền lựa chọn biện pháp hoặc loại tài sản kê biên trong phạm vi giới hạn nhất định. Thực tiễn cho thấy, khi tồn tại nhiều biện pháp hoặc nhiều loại tài sản đều có khả năng bảo đảm nghĩa vụ thi hành án, doanh nghiệp thường mong muốn lựa chọn phương án ít ảnh hưởng nhất đến hoạt động sản xuất. Vì vậy, pháp luật cần quy định theo hướng: “Trong trường hợp tồn tại từ hai biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế hoặc từ hai loại tài sản trở lên đều có thể bảo đảm nghĩa vụ thi hành án, doanh nghiệp là người phải thi hành án có quyền đề xuất bằng văn bản lựa chọn biện pháp hoặc loại tài sản cụ thể. Chấp hành viên xem xét đề xuất trên cơ sở bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, không vi phạm điều cấm của pháp luật và không làm trì hoãn việc thi hành án”. Quy định này tạo cơ sở pháp lý để doanh nghiệp chủ động bảo vệ hoạt động sản xuất, đồng thời, bảo đảm lợi ích công bằng cho người được thi hành án.
- Quy định tiêu chí cụ thể để xác định “tài sản là tư liệu sản xuất thiết yếu” nhằm hạn chế kê biên. Việc thiếu quy định cụ thể như hiện nay có thể dẫn đến tình trạng bị áp dụng tùy tiện trên thực tế, doanh nghiệp có thể bị kê biên cả những tài sản cốt lõi cho sản xuất. Do đó, pháp luật cần quy định rõ ràng theo hướng: tài sản là tư liệu sản xuất thiết yếu của doanh nghiệp gồm: tài sản gắn trực tiếp với dây chuyền sản xuất chính; tài sản mà việc kê biên có khả năng gây đình trệ đáng kể hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, quy định nguyên tắc xử lý loại tài sản này như sau: “Việc kê biên các tài sản này chỉ được tiến hành khi đã xử lý toàn bộ các tài sản khác mà vẫn không đủ để thi hành án”. Quy định này tạo sự thống nhất trong áp dụng pháp luật, đồng thời là căn cứ vững chắc để doanh nghiệp khiếu nại hoặc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
- Bổ sung quy định về việc kiểm soát và nghĩa vụ giải trình của chấp hành viên. Hiện, chấp hành viên không buộc phải giải thích khi từ chối đề xuất của doanh nghiệp hoặc khi kê biên tài sản sản xuất, dẫn đến quyền đề nghị của doanh nghiệp chỉ tồn tại trên hình thức. Vì vậy, cần quy định rõ: “trong trường hợp không chấp nhận đề xuất của doanh nghiệp hoặc quyết định kê biên tài sản gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh, chấp hành viên phải lập văn bản nêu rõ lý do, căn cứ pháp lý và báo cáo Thủ trưởng cơ quan THADS. Văn bản này phải được gửi cho doanh nghiệp và người được thi hành án để bảo đảm quyền giám sát và khiếu nại”. Quy định này sẽ nâng cao tính minh bạch, hạn chế sự tùy tiện trong hoạt động của chấp hành viên và giúp quyền đề nghị lựa chọn tài sản kê biên của doanh nghiệp phát huy giá trị thực tiễn.
Với các đề xuất hoàn thiện trên, pháp luật THADS có được cơ chế cân bằng hợp lý: vừa bảo đảm hiệu lực thi hành án, vừa duy trì Dân chủ và Pháp luật hoạt động sản xuất bình thường của doanh nghiệp phải thi hành án. Đây không chỉ là sự bảo vệ quyền lợi riêng của doanh nghiệp mà còn góp phần giữ ổn định thị trường, bảo đảm việc làm cho người lao động và lợi ích chung của nền kinh tế - xã hội.
Thứ hai, cần quy định về việc cung cấp thông tin cho báo chí trong thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp.
Hiện, pháp luật mới chỉ tập trung nhấn mạnh yêu cầu minh bạch mà chưa thiết lập cơ chế bảo vệ doanh nghiệp trước tác động tiêu cực từ truyền thông và dư luận. Để khắc phục bất cập này, nghiên cứu kiến nghị bổ sung quy định pháp luật theo hai hướng: (i) thu hẹp phạm vi công khai những thông tin nhạy cảm; (ii) trao quyền cho doanh nghiệp được yêu cầu cơ quan thi hành án công bố thông tin chính thức trong những trường hợp cần thiết. Cụ thể:
- Về phạm vi công khai thông tin, cần quy định: “cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm công khai các thông tin liên quan trực tiếp đến nghĩa vụ thi hành án và quyền lợi của người được thi hành án. Các thông tin có khả năng ảnh hưởng đến uy tín hoặc bí mật kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp chỉ được công khai trong phạm vi cần thiết và phải kèm theo giải thích rõ ràng”.
- Về quyền phản hồi của doanh nghiệp, cần quy định: “trong trường hợp xuất hiện thông tin sai lệch hoặc thông tin có khả năng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín và hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có quyền đề nghị cơ quan thi hành án phát hành thông tin chính thức để làm rõ. Cơ quan thi hành án có trách nhiệm xem xét và công bố thông tin chính thức bằng văn bản, thông cáo báo chí hoặc hình thức phù hợp khác trong thời hạn luật định”.
Việc bổ sung hai quy định trên sẽ giúp duy trì nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động thi hành án và tạo cơ chế bảo vệ hợp lý cho doanh nghiệp. Qua đó, doanh nghiệp có thể hạn chế rủi ro từ thông tin sai lệch, bảo đảm điều kiện duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, trong khi nghĩa vụ thi hành án vẫn được thực hiện đầy đủ và đúng pháp luật.
Thứ ba, cần quy định cụ thể về việc tạm giao quản lý, khai thác, sử dụng tài sản kê biên của doanh nghiệp.
Quy định pháp luật về việc tạm giao quản lý, khai thác tài sản kê biên của doanh nghiệp chưa tạo điều kiện cho doanh nghiệp phải thi hành án hoạt động, chưa bảo đảm tính minh bạch, thống nhất và khả thi. Vì vậy, pháp luật cần quy định để bảo đảm vừa duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vừa bảo toàn giá trị tài sản để phục vụ cho việc thi hành án. Để đạt được mục tiêu này, pháp luật THADS cần quy định cụ thể theo ba nhóm nội dung:
Một là, quy định rõ điều kiện và phạm vi doanh nghiệp được tạm giao quản lý, khai thác tài sản kê biên như sau: “Tài sản kê biên có thể được tạm giao cho doanh nghiệp quản lý, khai thác nếu tài sản đó trực tiếp phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh và việc khai thác không làm thay đổi mục đích sử dụng, giá trị cơ bản của tài sản. Quyết định tạm giao phải xác định rõ loại tài sản, phạm vi quản lý, thời hạn tạm giao và trách nhiệm của doanh nghiệp”.
Hai là, quy định linh hoạt về việc quản lý, khai thác và hiện trạng tài sản kê biên, cụ thể: “Doanh nghiệp được tạm giao tài sản có quyền thực hiện các hoạt động sửa chữa, bảo trì cần thiết để duy trì khả năng vận hành của tài sản, với điều kiện phải thông báo và được sự chấp thuận của cơ quan thi hành án dân sự. Các hoạt động này không được làm thay đổi mục đích sử dụng, công suất hoặc giá trị cơ bản của tài sản”.
Ba là, quy định cơ chế giám sát và xử lý vi phạm trong quá trình tạm giao tài sản kê biên, cụ thể: “Doanh nghiệp được tạm giao quản lý có nghĩa vụ bảo quản tài sản, không được chuyển nhượng, thế chấp, cho thuê hoặc sử dụng tài sản để bảo đảm nghĩa vụ khác. Cơ quan THADS có trách nhiệm kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất; nếu phát hiện doanh nghiệp vi phạm, chấp hành viên có quyền thu hồi quyết định tạm giao và áp dụng các biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật”.
Kết luận
Doanh nghiệp có đóng góp lớn cho phát triển kinh tế và an sinh xã hội, nhưng khi trở thành đối tượng THADS, họ thường phải đối diện với những tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiện, pháp luật về THADS còn một số hạn chế như: chưa ghi nhận quyền lựa chọn biện pháp bảo đảm, cưỡng chế của doanh nghiệp; cơ chế công khai thông tin thiếu cân bằng, dễ gây ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín doanh nghiệp; quy định về tạm giao tài sản kê biên thiếu chi tiết, nhất là về điều kiện, phạm vi và cơ chế giám sát. Để khắc phục những hạn chế này, pháp luật THADS cần được bổ sung cơ chế rõ ràng nhằm bảo đảm doanh nghiệp vừa thực hiện nghĩa vụ thi hành án, vừa có điều kiện duy trì và phục hồi hoạt động. Các giải pháp mở rộng quyền lựa chọn biện pháp thi hành án, thiết lập cơ chế công khai thông tin có kiểm soát và quy định chi tiết việc tạm giao tài sản kê biên là những nội dung cần thiết để hiện thực hóa yêu cầu này. Việc hoàn thiện pháp luật theo hướng trên không chỉ nâng cao hiệu quả và tính minh bạch của hoạt động THADS, mà còn phù hợp với Nghị quyết số 68-NQ/TW, góp phần tạo môi trường pháp lý ổn định, củng cố niềm tin xã hội vào pháp luật và bảo đảm cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển bền vững trong giai đoạn mới./.
ThS. Nguyễn Chí Hiếu
Giảng viên chính Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ
Ảnh: Internet
[1]. Hoàng Yến, Gần 78.900 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường trong quý I, https://thoibaotaichinhvietnam.vn/gan-78900-doanh-nghiep-rut-lui-khoi-thi-truong-trong-quy-i173993.html?utm_source=chatgpt.com, truy cập ngày 12/7/2025.
[2]. Tuyến Phan, Vụ Tân Hoàng Minh “chưa từng có tiền lệ”, chỉ 4 tháng đã cơ bản xong THADS, https://thanhnien.vn/vu-tan-hoang-minh-chua-tung-co-tien-le-chi-4-thang-da-co-ban-xong-thads-185241202104812658.htm, truy cập ngày 12/7/2025.
[3]. Điều 4 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.
[4]. Khoản 3 Điều 51 Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi, bổ sung năm 2025).
[5]. Trường Phong, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nhấn mạnh 3 yêu cầu trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, https://tienphong.vn/tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-nhan-manh-3-yeu-cau-trong-phong-chong-tham-nhung-tieu-cuc-post1663739.tpo, truy cập ngày 12/7/2025.
[6]. Điều 46 và Điều 66 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.
[7]. Sỹ Đông, Vụ Vạn Thịnh Phát có số lượng bất động sản thi hành án đặc biệt lớn, https://thanhnien.vn/vu-van-thinh-phat-co-so-luong-bat-dong-san-thi-hanh-an-dac-biet-lon-18524121115230412.htm?utm_source=chatgpt.com, truy cập ngày 13/7/2025; Hải Ninh, Vụ Alibaba: Nguyễn Thái Luyện bị cưỡng chế những tài sản nào?, https://kienthuc.net.vn/vu-alibaba-nguyen-thai-luyen-bi-cuong-che-nhung-tai-san-nao-post973502.html, truy cập ngày 13/7/2025.
[8]. Điều 42, Điều 44a, Điều 88 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.
[9]. Trang thông tin điện tử Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, Thông cáo báo chí về việc thông tin đến người được thi hành án và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án Trương Mỹ Lan và đồng phạm (giai đoạn 2), https://thads.moj.gov.vn/tphochiminh/noidung/ tintuc/lists/thavanthinhphat/view_detail.aspx?itemid=8&utm_source=chatgpt.com, truy cập ngày 15/7/2025.
[10]. Trần Thanh Vân (2025), Nâng cao chất lượng xử lý thông tin truyền thông trong hệ thống thi hành án dân sự, Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong giai đoạn mới, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tr. 167.
[11]. Xuân Thọ, Đấu giá tài sản kê biên thi hành án của Thép Việt Pháp, https://vietnamdaily.kienthuc.net.vn/dau-gia-tai-san-ke-bien-thi-hanh-an-cua-thep-viet-phap-post1345886.html, truy cập ngày 16/7/2025.
[12]. Hoàng Thị Thanh Hoa, Bảo quản tài sản thi hành án và một số vấn đề cần hoàn thiện, Tạp chí Nghề luật, Số 1/2025, tr. 27.
[13]. Điều 96 và Điều 112 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.
[14]. Mẫu số: D50-THADS (Ban hành kèm theo Thông tư số 04/2023/TT-BTP ngày 14/8/2023 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu nghiệp vụ trong thi hành án dân sự).
[15]. Hương Dịu, Lực lượng doanh nghiệp đóng góp khoảng 60% GDP, https://haiquanonline.com.vn/luc-luong-doanh-nghiep-dong-gop-khoang-60-gdp-193659.html?utm_source=chatgpt.com, truy cập ngày 14/7/2025.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Yến, Gần 78.900 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường trong quý I, https://thoibaotaichinhvietnam.vn/gan-78900-doanh-nghiep-rut-lui-khoi-thi truong-trong-quy-i173993.html?utm_source=chatgpt.com, truy cập ngày 12/7/2025.
2. Tuyến Phan, Vụ Tân Hoàng Minh ‘chưa từng có tiền lệ’, chỉ 4 tháng đã cơ bản xong THADS, https://thanhnien.vn/vu-tan-hoang-minh-chua-tung-co-tien-le-chi-4-thang-da-co-ban-xong-thads-185241202104812658. htm, truy cập ngày 12/7/2025.
3. Thế Kha, Tổng cục trưởng Thi hành án nói về áp lực vụ Vạn Thịnh Phát, FLC, Thuận An, https://dantri.com.vn/xa-hoi/tong-cuc-truong-thi-hanh-an-noi-ve ap-luc-vu-van-thinh-phat-flc-thuan-an-20241218101120962.htm, truy cập ngày 12/7/2025.
4. Trường Phong, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nhấn mạnh 3 yêu cầu trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, https://tienphong.vn/tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-nhan-manh-3-yeu-cau-trong-phong-chong-tham-nhung-tieu-cuc-post1663739. tpo, truy cập ngày 12/7/2025.
5. Sỹ Đông, Vụ Vạn Thịnh Phát có số lượng bất động sản thi hành án đặc biệt lớn, https://thanhnien.vn/vu-van-thinh-phat-co-so-luong-bat-dong-san-thi-hanh-an-dac-biet-lon-18524121115230412.htm?utm_source=chatgpt.com, truy cập ngày 13/7/2025.
6. Hải Ninh, Vụ Alibaba: Nguyễn Thái Luyện bị cưỡng chế những tài sản nào?, https://kienthuc.net.vn/vu-alibaba-nguyen-thai-luyen-bi-cuong-che-nhung-tai-san-nao-post973502.html, truy cập ngày 13/7/2025.
7. Hương Dịu, Lực lượng doanh nghiệp đóng góp khoảng 60% GDP, https://haiquanonline.com.vn/luc-luong-doanh-nghiep-dong-gop-khoang-60-gdp-193659.html?utm_ source=chatgpt.com, truy cập ngày 14/7/2025.
8. Trang thông tin điện tử Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, Thông cáo báo chí về việc thông tin đến người được thi hành án và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án Trương Mỹ Lan và đồng phạm (giai đoạn 2), https://thads.moj.gov.vn/tphochiminh/noidung/tintuc/lists/thavanthinhphat/view_ detail.aspx?itemid=8&utm_source=chatgpt. com, truy cập ngày 15/7/2025.
9. Trần Thanh Vân (2025), Nâng cao chất lượng xử lý thông tin truyền thông trong hệ thống thi hành án dân sự, Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong giai đoạn mới, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.
10. Xuân Thọ, Đấu giá tài sản kê biên thi hành án của Thép Việt Pháp, https://vietnamdaily.kienthuc.net.vn/dau-gia-tai-san-ke-bien-thi-hanh-an-cua-thep-viet-phap-post1345886.html, truy cập ngày 16/7/2025.
11. Hoàng Thị Thanh Hoa, Bảo quản tài sản thi hành án và một số vấn đề cần hoàn thiện, Tạp chí Nghề luật, Số 1/2025.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số Kỳ 1 (438) tháng 10/2025)