1. Dẫn nhập
Luật sư là một nghề xuất hiện sớm trong lịch sử, tồn tại gắn liền với luật pháp, Tòa án và công lý. Thời Hy Lạp cổ đại, Pericles - người đứng đầu nhà nước Aten đã tạo ra những tiền đề cần thiết cho quyền bào chữa của luật sư tại phiên tòa đó là: “Toàn thể những ai tham dự phiên tòa đều có quyền công khai kết tội hoặc bào chữa cho bị can”[1]. Đến thời La Mã cổ đại, luật sư bắt đầu được công nhận như một nghề thực hiện quyền bào chữa. Ở các nước hồi giáo, mối quan hệ giữa con người với con người bị ảnh hưởng bởi tâm linh, thần cảm nên nghề luật sư chậm phát triển thậm chí không có nghề luật sư. Ở các nước dân chủ, nghề luật sư rất phát triển và giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Theo quan điểm của luật sư phương Tây, khi tham gia bảo vệ quyền lợi cho khách hàng, luật sư phải đặt quyền lợi của cá nhân cao hơn hoặc bằng quyền lợi của cộng đồng xã hội.
Ở Việt Nam, nghề luật sư xuất hiện muộn hơn so với nhiều quốc gia khác trên thế giới. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 về tổ chức đoàn thể luật sư. Giai đoạn 1954 - 1975, do chiến tranh cùng với tình trạng kinh tế khó khăn, nghề luật sư không có điều kiện phát triển ở miền Bắc. Năm 1986, chủ trương đổi mới đất nước của Nhà nước đã tạo tiền đề cần thiết cho nghề luật sư phát triển, đó là những tiền đề về kinh tế, môi trường pháp lý và nhu cầu của xã hội. Ngày 18/12/1987, Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh số 2A-LCT/HĐNN8 về Tổ chức luật sư. Ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã tạo tiền đề thúc đẩy việc hình thành các chế định liên quan đến vai trò của luật sư, đặc biệt là Luật Luật sư năm 2006. Đây là các văn bản pháp lý quan trọng ghi nhận vai trò và địa vị pháp lý của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự. Ứng với từng giai đoạn, từng thời kỳ lịch sử, luật sư lại có các tên gọi khác nhau như: Luật sư, người bào chữa, trạng sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, bị can, bị cáo… Tuy có nhiều cách gọi khác nhau nhưng đều chỉ những phẩm chất tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức: “Tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật”[2]. Dù với vai trò là người bào chữa hay người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, luật sư luôn là “chỗ dựa tinh thần” cho thân chủ tại chốn tụng đình, giúp bị cáo, bị hại, đương sự ổn định tâm lý.
Có thể đưa ra khái niệm về luật sư như sau: Luật sư là người hành nghề liên quan đến lĩnh vực pháp luật khi có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật của mỗi quốc gia. Luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (gọi chung là khách hàng). Luật sư cung cấp các dịch vụ pháp lý như: Tư vấn pháp luật, soạn thảo văn bản, tổ chức đàm phán, thương lượng về các vấn đề pháp luật, và có thể đại diện cho thân chủ hoặc bảo vệ quyền lợi của thân chủ trước Tòa án trong quá trình tiến hành tố tụng (THTT).
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, việc các luật sư tham gia trong quá trình THTT đã bảo vệ tốt hơn quyền bào chữa của bị can, bị cáo, người bị hại... Bên cạnh đó, còn góp phần quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, giúp các cơ quan THTT phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thông qua hoạt động bào chữa, tranh tụng tại Tòa án, luật sư đã góp phần làm giảm thiểu các vụ án oan, sai, xuất hiện nhiều luật sư giỏi, xuất sắc, vị thế của luật sư trong xã hội cũng ngày càng được nâng cao. Vai trò của luật sư khi tham gia tố tụng nói chung và tố tụng hình sự (TTHS) nói riêng tuy đã được khẳng định trong các Bộ luật Tố tụng hình sự (năm 2003, năm 2015). Tuy nhiên, hoạt động tranh tụng của luật sư trên thực tế vẫn còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, việc nghiên cứu nhằm phát huy vai trò của luật sư trong hoạt động tố tụng là việc hết sức cần thiết, từ đó tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tranh tụng của luật sư, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.
2. Vai trò của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự
Trong hoạt động tư pháp, hoạt động xét xử được coi là khâu trọng tâm, biểu hiện sự tập trung và thể hiện đầy đủ quyền tư pháp, trên cơ sở kết quả điều tra, truy tố và bào chữa, Tòa án nhân danh Nhà nước đưa ra phán quyết chính xác, khách quan và đúng pháp luật hay không, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân có được bảo đảm hay không phụ thuộc vào quá trình điều tra, truy tố và xét xử từ phía cơ quan THTT, mặt khác từ phía hoạt động tích cực của luật sư với vai trò là người bào chữa cho bị can, bị cáo và góp phần bảo vệ công lý. Hoạt động của luật sư không phải là hoạt động tư pháp, nhưng lại có mối liên hệt chặt chẽ với hoạt động tư pháp, bổ trợ cho hoạt động tư pháp.
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” đã đặc biệt quan tâm đến vai trò của luật sư và đặt nhiệm vụ cho cơ quan tư pháp trong việc xác định rõ vị trí của luật sư trong hoạt động tư pháp và bảo đảm hoạt động của luật sư trong tố tụng: “Khi xét xử, Tòa án phải đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, việc xét xử của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo… Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng (tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa…”[3].
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” cũng nêu rõ: “Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ chế để luật sư thực hiện tốt tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của luật sư đối với các tổ chức thành viên của mình”[4].
Trong việc đổi mới, cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp cần chú ý đến vai trò của luật sư trong việc góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động tư pháp. Trong điều kiện cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, cần chú ý đến việc phát triển đội ngũ luật sư chuyên nghiệp có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên môn cao, phát huy vai trò của luật sư trong hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử.
2.1. Trong giai đoạn giải quyết tin báo tố giác tội phạm
Giai đoạn giải quyết tin báo tố giác tội phạm là giai đoạn trước khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can - là giai đoạn một người bị tố giác phạm tội, bị kiến nghị khởi tố. Theo quy định của pháp luật hiện hành, luật sư có thể tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Đây là một quy định mới của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Theo Điều 83 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, luật sư tham gia giai đoạn này với tên gọi là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là nguyên tắc dân chủ trong TTHS, vì vậy, việc mở rộng sự tham gia của luật sư trong TTHS cho phép luật sư tham gia trong giai đoạn trước khi khởi tố (từ khi có quyết định tạm giữ) là cần thiết. Việc luật sư xuất hiện sớm có một ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp người bị buộc tội ổn định về tâm lý, có sự bình tĩnh, kịp thời bảo vệ được những quyền lợi hợp pháp của họ.
2.2. Trong giai đoạn điều tra, truy tố
Theo quy định tại Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, luật sư có thể tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Luật sư có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, hỏi cung bị can, được gặp bị can, bị cáo. Việc có mặt luật sư trong các buổi lấy lời khai, hỏi cung bị can không những giúp cho họ tự tin hơn trong khai báo mà còn ngăn ngừa sự vi phạm từ phía cơ quan THTT, tránh tình trạng khi ra Tòa có sự phản cung, khiếu nại về việc dùng nhục hình, bức cung, mớm cung... Điều luật này còn mở rộng quyền của luật sư: Được “thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền THTT kiểm tra, đánh giá; đề nghị cơ quan có thẩm quyền THTT thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản”. Tuy nhiên, quy định này giống với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Theo đó, người bào chữa muốn được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can thì phải được người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý. Đây là một “nút thắt” làm mất đi cơ hội được tiếp xúc giữa người bị buộc tội với người bào chữa. Nếu như điều tra viên không đồng ý thì luật sư không thể hỏi thân chủ của mình về những tình tiết liên quan đến vụ án, thu thập thông tin, hoặc làm rõ một số nội dung tình tiết phục vụ cho việc bào chữa của mình.
Để tạo thuận lợi cho luật sư trong việc bào chữa, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 còn quy định luật sư có quyền gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Việc gặp này phải được người có thẩm quyền đồng ý. Trên thực tế, việc gặp người bị bắt, bị tạm giữ, bị can còn gặp rất nhiều khó khăn, phải xuất trình nhiều giấy tờ, thủ tục phiền hà. Trong trường hợp nếu được gặp thì đều có sự giám sát của điều tra viên hoặc cán bộ trại giam, thời gian và số lần gặp đều bị hạn chế.
Trong giai đoạn này, luật sư còn được nghiên cứu hồ sơ vụ án, được đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu có liên quan đến bào chữa. Tuy nhiên, có những vụ án hồ sơ rất nhiều và phức tạp, nhưng thời gian dành cho luật sư nghiên cứu rất hạn chế. Mặt khác, luật sư không được bố trí nơi ngồi để nghiên cứu hồ sơ vụ án. Mặc dù, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định cho luật sư được sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án, nhưng nhiều cơ quan THTT chưa thực sự tạo điều kiện cho luật sư thực hiện quyền này. Một số cơ quan đã đưa ra nhiều lý do để trì hoãn việc sao chụp tài liệu (như: Không có nhân viên giám sát luật sư sao chụp tài liệu, máy photocopy bị hỏng hoặc tiền photo quá cao…). Như vậy, sự tham gia của luật sư ở giai đoạn này không chỉ mở rộng những nguyên tắc dân chủ trong TTHS mà còn nâng cao chất lượng điều tra, tăng cường pháp chế trong giai đoạn điều tra. Những quan điểm, ý kiến của luật sư trong tố tụng góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh chống tội phạm, khắc phục những sai lầm trong việc xử lý vụ án, góp phần quan trọng vào công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam. Chính vì vậy, cần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của luật sư trong TTHS nói riêng và trong xã hội nói chung.
2.3. Trong giai đoạn xét xử
Giai đoạn xét xử được xác định bắt đầu khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ án hình sự do Viện kiểm sát chuyển sang và kết thúc bằng một bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Giai đoạn xét xử tại phiên tòa sơ thẩm gồm: Thủ tục bắt đầu phiên tòa, thủ tục tranh tụng tại phiên tòa, nghị án và tuyên án. Có thể khẳng định, vai trò của luật sư được thể hiện rõ nét nhất thông qua việc tranh tụng tại phiên tòa. Điều này đảm bảo tính công khai, dân chủ, công bằng, không lệ thuộc vào ý chí chủ quan của người THTT, không còn định kiến như quan niệm trước đây là “án tại hồ sơ” - mọi kết luận đều dựa trên hồ sơ của cơ quan THTT.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, thẩm quyền và vị thế của luật sư tranh tụng tại phiên tòa được nâng cao rõ rệt. Khi tham gia tranh tụng tại phiên tòa, “Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những người tham gia phiên tòa thì hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và được ghi trong bản án”[5]. Đây là điểm mới so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Khi tranh luận tại phiên tòa, luật sư có quyền trình bày ý kiến, đưa ra tài liệu, chứng cứ và lập luận để đối đáp với kiểm sát viên về nội dung tranh luận. Luật sư có quyền đưa ra đề nghị, kiểm sát viên phải đưa ra tài liệu, chứng cứ và lập luận để đối đáp với ý kiến của luật sư tại phiên tòa. Thời gian tranh luận của luật sư không bị hạn chế. Đây là cơ hội để luật sự thể hiện được bản lĩnh pháp lý, kinh nghiệm hành nghề, năng lực chuyên môn và kỹ năng tranh tụng của mình.
Mặc dù Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định, chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận và phải tạo điều kiện cho bên buộc tội, bên gỡ tội được tranh luận, trình bày hết ý kiến của mình. Tuy nhiên, thực tiễn vẫn tồn tại quy định, chủ tọa phiên tòa có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ ánp[6]. Việc xác định “ý kiến không liên quan đến vụ án” hoàn toàn phụ thuộc vào nhận thức chủ quan của người THTT. Với người bị buộc tội hay người bào chữa thì ý kiến trình bày đó là nội dung minh chứng cho quan điểm bào chữa của mình. Nhưng với chủ tọa phiên tòa, khi không hiểu rõ thì cho rằng ý kiến mà luật sư trình bày không liên quan đến việc bào chữa và họ có quyền cắt đi. Như vậy, quyền tranh tụng của bên gỡ tội đã bị hạn chế - nguyên tắc tranh tụng chưa được bảo đảm.
3. Một số giải pháp nâng cao vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
Thứ nhất, bảo đảm quyền tranh tụng tại phiên tòa bằng việc cần xây dựng, hoàn thiện quy định pháp luật về tố tụng theo hướng thực hiện quyền bình đẳng giữa luật sư và người THTT.
Thứ hai, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao cần ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, trong đó có những quy định về thẩm quyền của luật sư tại phiên tòa, về người làm chứng, nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của luật sư; khẳng định, nâng cao vị thế của luật sư tại phiên tòa. Bên cạnh đó, cần có quy định rõ trách nhiệm của kiểm sát viên là phải đối đáp lại những quan điểm, lý lẽ bào chữa của luật sư, nếu ý kiến bào chữa của luật sư đưa ra có căn cứ mà kiểm sát viên không đối đáp thì ý kiến của luật sư phải được Hội đồng xét xử chấp nhận làm cơ sở để HĐXX ra bản án, quyết định.
Thứ ba, tạo cơ sở pháp lý để phát huy vai trò luật sư; có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện cơ sở vật chất, tài chính phù hợp và có biện pháp bảo vệ hoạt động nghề nghiệp của luật sư.
Thứ tư, tăng cường quản lý nhà nước đối với tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư.
Thứ năm, bản thân người luật sư cần phải thường xuyên nghiên cứu, trau dồi, cập nhật kịp thời về kiến thực pháp lý, thực hiện nghiêm việc tham gia bồi dưỡng chuyên sâu về chuyên môn, nghiệp vụ luật sư; trao đổi kinh nghiệm, kỹ năng về hành nghề, tranh tụng,“văn hóa tụng đình”; đề cao đạo đức và ứng xử hành nghề và phải nhận thức đầy đủ trách nhiệm, chức năng xã hội của nghề luật sư, vị trí, vai trò của mình trong hoạt động TTHS nhằm góp phần bảo vệ công lý; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho thân chủ; giúp giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp luật, tránh được những vụ án oan sai như báo chí đưa ra trong thời gian gần đây.
Thứ sáu, cần kết hợp lồng ghép việc tuyên truyền, phố biến, giáo dục pháp luật về hình sự với các nội dung liên quan đến chức năng, vai trò của luật sư nhằm nâng cao nhận thức xã hội về vai trò luật sư, người bào chữa hay người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong TTHS.
Với việc thực hiện đồng bộ một số giải pháp nêu trên, vai trò của luật sư trong hoạt động TTHS nói chung, trong giai đoạn xét xử nói riêng mới được phát huy hiệu quả; quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng được bảo đảm; chất lượng tranh tụng được nâng cao, thực chất và dân chủ; góp phần bảo đảm công lý được thực thi trên thực tế.
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
[1]. Lương Ninh (1998), Lịch sử thế giới cổ đại, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội.
[2]. Khoản 2 Điều 22 Luật Luật sự năm 2015.
[3]. Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 Nghị quyết của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
[4]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”.
[5]. Xem: Khoản 4 Điều 322 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[6]. Xem: Khoản 3 Điều 322 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.