Ảnh minh họa
1. Tiềm năng phát triển kinh tế biển ở Việt Nam và đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với phát triển bền vững kinh tế biển
Việt Nam là quốc gia biển, có đường bờ biển dài hơn 3.260 km, với hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cùng với đó là các tỉnh, thành phố ven biển của Việt Nam chiếm hơn 50% dân số cả nước, phần lớn lao động làm việc trong các ngành, nghề liên quan đến biển. Với các điều kiện về địa chính trị, địa kinh tế, Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế biển, gồm: kinh tế hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển), nuôi trồng thủy sản, khai thác hải sản, khai thác khoáng sản, du lịch biển, đảo, diêm nghiệp… cụ thể:
- Vùng biển Việt Nam thuộc Biển Đông, có vị trí đặc biệt quan trọng, rất thuận lợi trong phát triển kinh tế biển. Biển Đông có tuyến đường giao thương hàng hải quốc tế nhộn nhịp nhất trên thế giới, nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, châu Âu - châu Á, Trung Đông - châu Á. Sự phát triển của nhiều nền kinh tế ở Đông Á đều gắn liền với tuyến đường biển này. Trong khi đó, bờ biển Việt Nam có hơn 100 vị trí có thể xây dựng các cảng biển lớn, là điều kiện thuận lợi để phát triển giao thông vận tải biển.
- Việt Nam có ngư trường đánh bắt truyền thống rộng lớn với hơn 2.000 loài cá, trong đó 130 loài có giá trị kinh tế cao; ngoài ra, có trên 600 loài giáp xác, nhuyễn thể và rong biển. Trữ lượng nguồn lợi hải sản bình quân hàng năm ước tính vào khoảng 4.363 triệu tấn, chưa bao gồm nguồn lợi tại các vùng biển sâu, gò nổi và thềm lục địa[1]. Với tiềm năng này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển ngành kinh tế khai thác hải sản. Bên cạnh đó, Việt Nam còn là quốc gia có tiềm năng phát triển nuôi trồng thủy sản ở biển và ven biển. Diện tích có thể khai thác là 500.000 ha vùng vịnh kín ven bờ, ven các đảo gần bờ và các bãi triều thấp.
- Du lịch biển cũng là một trong những thế mạnh của nền kinh tế biển Việt Nam. Với 125 bãi biển lớn nhỏ, trong đó khoảng 20 bãi có quy mô và tiêu chuẩn quốc tế, nắng ấm quanh năm, không khí trong lành cùng nhiều cảnh quan đẹp là điều kiện lý tưởng để Việt Nam xây dựng các khu nghỉ mát, nghỉ dưỡng, du lịch cao cấp. Một số địa danh du lịch biển của Việt Nam đã được biết đến trên phạm vi toàn thế giới, như: Vịnh Hạ Long (được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới và đã được công nhận là Kỳ quan thiên nhiên của thế giới); Vịnh Nha Trang (một trong những vịnh đẹp nhất hành tinh); bãi biển Đà Nẵng (được Tạp chí Forbes bầu chọn là một trong 06 bãi biển quyến rũ nhất hành tinh)… Có thể thấy, đảo và các vùng ven biển của Việt Nam tập trung nhiều di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển, khu bảo tồn thiên nhiên, nhiều di tích văn hóa - lịch sử, các lễ hội, tín ngưỡng dân gian gắn liền với biển. Với những lợi thế này, du lịch biển hàng năm đóng góp khoảng 70% doanh thu của ngành Du lịch cả nước[2].
- Đặc biệt, trong các vùng biển của Việt Nam có khoảng 35 loại khoáng sản với quy mô trữ lượng khai thác khác nhau từ nhỏ đến lớn, thuộc các nhóm: nhiên liệu, kim loại, vật liệu xây dựng, đá quý và khoáng sản lỏng; nguồn tài nguyên dầu khí phân bổ trong các bể trầm tích… Ngoài ra, nhiều vùng ven biển Việt Nam đã phát hiện được các sa khoáng, khoáng vật nặng của các nguyên tố quý hiếm, như: titan, ziacon, xeri. Một số mỏ cát vật liệu xây dựng dưới đáy biển ở Quảng Ninh và Hải Phòng với trữ lượng trên 100 tỷ tấn và một dãy cát thạch anh ngầm dưới đáy biển Quảng Ninh (gần 09 tỷ tấn). Bên cạnh đó, tiềm năng tài nguyên nước biển cũng rất lớn, với các dạng năng lượng biển, như: băng cháy, năng lượng thủy triều, năng lượng sóng, năng lượng hạt nhân nước nặng từ biển nước. Với tiềm năng này có thể bảo đảm cho ngành khai thác và chế biến khoáng sản phát triển.
Như vậy, với điều kiện tự nhiên và vị trí thuận lợi, Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển các ngành kinh tế biển. Nhận thấy tiềm năng của kinh tế biển, Việt Nam đã rất quan tâm và ban hành nhiều chủ trương, đường lối, chính sách lớn, góp phần phát triển bền vững kinh tế biển, như: Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09/02/2007 Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” và Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” (Nghị quyết số 36-NQ/TW), trong đó đều khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của kinh tế biển đối với nước ta và nhấn mạnh đến sự phát triển kinh tế biển phải gắn với bảo đảm an ninh, quốc phòng, bảo vệ môi trường… Đặc biệt, Nghị quyết số 36-NQ/TW đã đưa ra mục tiêu tổng quát của Chiến lược là: đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh; đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn hóa sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng… Ngày 05/3/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 26/NQ-CP về Kế hoạch tổng thể và kế hoạch 05 năm của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW (Nghị quyết số 26/NQ-CP) bao gồm một số giải pháp cụ thể: (i) về quản trị biển và đại dương, quản lý vùng bờ: định kỳ rà soát, đánh giá, sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật về biển, hải đảo theo hướng ưu tiên hoàn thiện hành lang pháp lý, đổi mới, phát triển mô hình tăng trưởng xanh, bảo vệ môi trường, phát huy văn minh sinh thái biển, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh quốc tế, hiệu quả đầu tư công của các ngành kinh tế biển, các vùng biển, ven biển…; (ii) về phát triển kinh tế biển, ven biển: đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật ngành du lịch cho các địa bàn trọng điểm, khu vực động lực phát triển du lịch ven biển, hải đảo. Phát triển hệ thống cảng biển theo quy hoạch tổng thể và thống nhất trên quy mô cả nước nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tiếp tục tìm kiếm, thăm dò khoáng sản, dầu khí, các dạng hydrocarbon phi truyền thống tại các bể trầm tích vùng nước sâu, xa bờ nhằm gia tăng trữ lượng khoáng sản, dầu khí. Tập trung phát triển nuôi trồng hải sản trên biển, ven biển theo hướng sản xuất hàng hóa hiện đại, ứng dụng công nghệ cao, bảo vệ môi trường…; (iii) về nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng văn hóa biển, xã hội gắn bó, thân thiện với biển: xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt là điện, nước ngọt, thông tin liên lạc, y tế, giáo dục tại các hải đảo. Bảo đảm cho người dân sinh sống và làm việc ở vùng biển, hải đảo được tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế có chất lượng, nhằm nâng cao sức khỏe của người dân…; (iv) về khoa học, công nghệ, phát triển nguồn nhân lực biển: đổi mới, sáng tạo, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến và đẩy mạnh nghiên cứu khoa học công nghệ biển gắn với điều tra cơ bản biển. Hình thành các trung tâm nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ tiên tiến, xuất sắc: công nghệ sinh học biển, công nghệ vũ trụ trong giám sát biển, khai thác đáy biển sâu trên cơ sở phát triển nguồn lực sẵn có…; (v) về môi trường, ứng phó với thiên tai, biến đổi khí hậu và nước biển dâng: tích hợp, số hóa cơ sở dữ liệu về biển và hải đảo; đầu tư nâng cấp hạ tầng công nghệ bảo đảm việc nhập, cập nhật, khai thác, chia sẻ dữ liệu đối với các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu biển, hải đảo của các bộ, ngành, địa phương… (vi) về bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế: phát huy sức mạnh tổng hợp, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ vùng trời, các vùng biển và hải đảo của Tổ quốc. Củng cố vững chắc thế trận an ninh nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân vùng biển, đảo. Tăng cường năng lực ứng phó, giải quyết có hiệu quả các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống khu vực biển…
Đồng thời, Bộ Chính trị ban hành các Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, Nghị quyết số 26-NQ/TW, Nghị quyết số 30-NQ/TW về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ, Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ, đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó, đề ra các nhiệm vụ, giải pháp phát triển các vùng biển, đảo Việt Nam. Ngày 28/6/2024, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV đã biểu quyết thông qua Nghị quyết số 139/2024/QH15 về “Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050” với mục tiêu tạo lập cơ sở cho phát triển nhanh và bền vững kinh tế biển, góp phần hình thành, phát triển các ngành kinh tế biển vững mạnh.
Bên cạnh các chủ trương, đường lối của Đảng, Luật Biển Việt Nam năm 2012 cũng quy định về phát tiển kinh tế biển từ Điều 42 đến Điều 46. Theo đó, căn cứ để lập quy hoạch phát triển kinh tế biển gồm: (i) chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia; (ii) định hướng chiến lược phát triển bền vững và chiến lược biển; (iii) đặc điểm, vị trí địa lý, quy luật tự nhiên của các vùng biển, vùng ven biển và hải đảo; (iv) kết quả điều tra cơ bản về tài nguyên và môi trường biển; thực trạng và dự báo nhu cầu khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển của cả nước, của vùng và của các tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc trung ương; (v) giá trị tài nguyên và mức độ dễ tổn thương của môi trường biển; (vi) nguồn lực để thực hiện quy hoạch. Như vậy, có thể thấy, yêu cầu phát triển bền vững là một trong những căn cứ quan trọng để xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế biển. Ngoài ra, Luật còn quy định “Nhà nước có chính sách đầu tư xây dựng, phát triển các khu kinh tế, cụm công nghiệp ven biển, kinh tế các huyện đảo theo quy hoạch, bảo đảm hiệu quả, phát triển bền vững”.
Cùng với Luật Biển Việt Nam năm 2012, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành đã tập trung quy định về các công cụ, cơ chế, chính sách điều phối, phối hợp liên ngành, liên vùng, nguyên tắc, nội dung phối hợp trong quản lý tổng hợp tài nguyên biển và hải đảo; quy định cụ thể về kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo, nhận chìm ở biển và quy định chi tiết một số vấn đề đặc thù trong ứng phó sự cố tràn dầu, hóa chất độc trên biển.
Có thể khẳng định, Luật Biển Việt Nam năm 2012, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành đã tạo hành lang pháp lý quan trọng trong quản lý nhà nước về biển và hải đảo ở nước ta, từng bước thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và các hệ sinh thái biển, hải đảo; phục vụ phát triển bền vững kinh tế biển.
Đồng thời, ngày 10/12/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1539/QĐ-TTg phê duyệt Đề án mở rộng, thành lập mới các khu bảo tồn biển, khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, phục hồi các hệ sinh thái biển đến năm 2030, để đảm bảo diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt 6% diện tích tự nhiên vùng biển Việt Nam. Mục tiêu chung của Đề án nhằm quản lý và bảo vệ tốt các hệ sinh thái biển, ven biển và hải đảo; tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt khoảng 6% vào năm 2030 diện tích tự nhiên vùng biển Việt Nam, góp phần bảo tồn đa dạng sinh học, phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng, bảo đảm tính toàn vẹn và mối quan hệ tự nhiên giữa các hệ sinh thái đất liền và biển; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng; phát triển bền vững kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, hướng tới mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
2. Thực trạng phát triển bền vững kinh tế biển ở Việt Nam và một số thách thức đặt ra
Theo Báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), sau 05 năm thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển theo Nghị quyết số 36-NQ/TW và Nghị quyết số 26/NQ-CP, năm 2022, GRDP bình quân đầu người của các tỉnh ven biển đạt 97,2 triệu đồng, cao hơn bình quân cả nước (96,6 triệu đồng). Du lịch và dịch vụ biển có sự phát triển nhanh chóng, tạo diện mạo mới cho hệ thống đô thị ven biển, từng bước hình thành cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại, cao cấp. Kinh tế hàng hải đạt được nhiều thành tựu quan trọng, năng lực vận tải ngày càng được nâng cao. Ngành thủy sản có quy mô ngày càng mở rộng, tốc độ tăng trưởng cao. Sản lượng nuôi trồng thủy sản năm 2022 đạt 5,14 triệu tấn, khai thác 3,85 triệu tấn. Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 8,8 tỷ USD lên gần 11 tỷ USD (năm 2022). Cả nước có 19 khu kinh tế ven biển nằm trong quy hoạch được phê duyệt, thu hút được 553 dự án nước ngoài. Công tác nghiên cứu khoa học biển, công nghệ và điều tra cơ bản tài nguyên môi trường biển đã bước đầu đánh giá được nguồn lợi hải sản tại vùng biển ven bờ; hiện trạng đa dạng sinh học các hệ sinh thái biển; tiềm năng các nguồn năng lượng tái tạo (điện gió, điện thủy triều, điện sóng, điện mặt trời…). Hoạt động ngăn ngừa, kiểm soát và giảm thiểu ô nhiễm môi trường biển và hải đảo được các địa phương có biển tích cực triển khai. Quốc phòng, an ninh, chủ quyền biển đảo được giữ vững. Hệ thống chính sách, pháp luật, quy hoạch, chiến lược về biển cơ bản được hoàn thiện, mang tư duy, quan điểm đột phá trong phát triển bền vững kinh tế biển[3].
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc phát triển kinh tế biển bền vững ở Việt Nam hiện còn gặp nhiều thách thức[4]:
Một là, nhận thức về vị trí, vai trò của phát triển bền vững kinh tế biển của các cấp, ngành, địa phương và người dân ven biển chưa cao, chưa đầy đủ, sâu sắc. Do đó, dẫn đến: quy mô kinh tế biển nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng; cơ cấu ngành, nghề trong lĩnh vực kinh tế biển chưa hợp lý; việc đầu tư các khu kinh tế ven biển còn tràn lan, thiếu trọng tâm, trọng điểm; còn nặng tư duy khai thác tự phát không gắn liền với bảo tồn phát triển; chưa thực sự coi biển là ngôi nhà chung, do vậy sống nhờ biển chứ chưa thể mạnh về biển, giàu từ biển.
Hai là, kết cấu hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo còn yếu, manh mún, thiết bị chưa đồng bộ, nên hiệu quả sử dụng thấp, kém bền vững. Các cảng biển, khu kinh tế, sân bay ven biển còn bé, chưa được đầu tư thích đáng và chưa hình thành hệ thống kinh tế biển liên hoàn…
Ba là, tình hình khai thác, sử dụng biển và hải đảo chưa đạt hiệu quả cao, thiếu bền vững do khai thác tự phát, không tuân thủ quy hoạch biển đảo. Phương thức khai thác biển chủ yếu vẫn theo hình thức sản xuất và đầu tư nhỏ lẻ, sử dụng công nghệ chưa phù hợp, chủ yếu là ưu tiên khai thác tài nguyên biển ở dạng vật chất, không tái tạo; chú trọng nhiều đến sản lượng, số lượng, ít chú ý đến chất lượng và lợi ích lâu dài của các dạng tài nguyên. Bên cạnh đó, công tác quản lý, giám sát việc khai thác nguồn lợi biển còn nhiều bất cập.
Bốn là, tổ chức bộ máy về quản lý tổng hợp biển còn bất cập, hiệu lực, hiệu quả còn hạn chế. Bộ máy, nhân lực làm công tác quản lý nhà nước về biển còn mỏng, chưa theo kịp sự phát triển của kinh tế biển. Nguồn nhân lực phục vụ phát triển các ngành, lĩnh vực, địa bàn kinh tế biển chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng, cơ cấu chưa hợp lý. Chế độ, chính sách cho đội ngũ chuyên gia nghiên cứu, điều tra tài nguyên, môi trường biển còn nhiều bất cập, chưa phù hợp.
Năm là, đa dạng sinh học và nguồn lợi thủy sản giảm sút. Các hệ sinh thái quan trọng bị suy thoái, bị mất và thu hẹp. Các hòn đảo có xu hướng di chuyển ra xa bờ hơn do thay đổi cấu trúc hoàn lưu ven biển, thay đổi tương tác sông biển ở các vùng cửa sông ven bờ. Nguồn lợi hải sản có xu hướng giảm dần về số lượng và trữ lượng, nguồn lợi hải sản ở vùng biển gần bờ có dấu hiệu bị khai thác cạn kiệt.
Sáu là, môi trường biển biến đổi theo chiều hướng xấu, một số khu vực ven bờ bị ô nhiễm, hiện tượng thủy triều đỏ xuất hiện ngày càng nhiều với quy mô rộng. Ngoài ra, Việt Nam cũng đang chịu tác động nặng nề của tình trạng biến đổi khí hậu và nước biển dâng, nhất là các vùng ven biển và các đảo nhỏ.
Những thách thức trên đang là vấn đề cấp bách, cần phải có giải pháp tháo gỡ, khắc phục kịp thời nhằm thúc đẩy kinh tế biển, đảo phát triển hiệu quả cao và mang tính bền vững.
3. Một số giải pháp thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển góp phần tạo động lực đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới
Là quốc gia có nhiều tiềm năng và lợi thế về phát triển kinh tế biển, trong thời gian qua, Việt Nam cơ bản nắm bắt, tận dụng được lợi thế này để phát triển kinh tế biển bền vững, hướng tới hiện thực hóa mục tiêu đưa đất nước trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển và đạt các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều chuyên gia, phát triển kinh tế biển Việt Nam hiện chưa gắn kết hài hòa với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường, biểu hiện ở tình trạng ô nhiễm, sự cố môi trường tại một số vùng ven biển còn diễn ra nghiêm trọng; ô nhiễm rác thải nhựa đã trở thành vấn đề trầm trọng; các hệ sinh thái biển, đa dạng sinh học biển bị suy giảm; một số tài nguyên biển bị khai thác quá mức và chưa bền vững,… Vì vậy, trong thời gian tới cần có giải pháp tổng thể, toàn diện, căn cơ, nhưng có trọng tâm, trọng điểm, trong đó vừa chú trọng vào các hoạt động kinh tế, vừa quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường để phát triển bền vững, cụ thể:
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về phát triển bền vững kinh tế biển. Rà soát, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về biển đảo theo hướng phát triển bền vững, bảo đảm tính khả thi, đồng bộ, thống nhất, phù hợp với chuẩn mực phát luật và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Điều này giúp tạo hành lang pháp lý thuận lợi để phát triển khoa học, công nghệ biển, thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong khai thác và bảo vệ tài nguyên biển nhằm phát triển kinh tế biển bền vững.
Tập trung tổng kết, rà soát đánh giá sửa đổi Luật Biển Việt Nam năm 2012 và Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015 cùng các văn bản luật có liên quan theo hướng tăng cường phân cấp, phân quyền và quy định rõ thẩm quyền trong quản lý, khai thác, sử dụng biển.
Thứ hai, tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp, ngành, địa phương và người dân về vị trí, vai trò, sự cần thiết và yêu cầu của phát triển bền vững kinh tế biển. Công tác tuyên truyền phải được tiến hành một cách thường xuyên, tích cực, chủ động với nhiều hình thức đa dạng tạo sự chuyển biến sâu, rộng trong mọi cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp.
Thứ ba, tiếp tục cụ thể hóa các chủ trương, định hướng của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quản lý, khai thác và sử dụng không gian biển nhằm xây dựng Việt Nam thành quốc gia “mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn” theo tinh thần Nghị quyết số 36-NQ/TW và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đổi mới tư duy, tạo đột phá, phù hợp với xu thế chung toàn cầu về phát triển bền vững kinh tế biển trong tình hình mới, trong đó xây dựng kinh tế biển xanh được coi là nền tảng[5]. Kinh tế biển xanh được hiểu là sử dụng một cách bền vững các nguồn tài nguyên đại dương để tăng trưởng kinh tế, cải thiện sinh kế và việc làm cũng như sức khỏe của hệ sinh thái đại dương, cụ thể[6]:
- Đối với lĩnh vực nuôi trồng và khai thác hải sản nên hạn chế khai thác gần bờ để tái tạo nguồn lợi hải sản đang bị cạn kiệt, tập trung nhân lực, nguồn vốn cho các tàu lớn để đẩy mạnh khai thác hải sản xa bờ và viễn dương, phù hợp với từng vùng biển và khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển, đi đôi với thực hiện hiệu quả công tác đào tạo, chuyển đổi nghề cho ngư dân. Thúc đẩy các hoạt động nuôi trồng, khai thác hải sản bền vững, tăng cường bảo vệ tái sinh nguồn lợi hải sản, nghiêm cấm các hoạt động khai thác mang tính tận diệt. Đầu tư, nâng cấp các cảng cá, bến cá, khu neo đậu của tàu, thuyền, tổ chức tốt dịch vụ hậu cần nghề cá. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong nuôi trồng, khai thác, bảo quản, chế biến hải sản, tạo ra các sản phẩm chủ lực, có chất lượng, giá trị kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường.
- Đối với lĩnh vực chế biến thủy sản, cần chú trọng phát triển bền vững theo quy hoạch, gắn với phát triển vùng nguyên liệu thủy sản; chú trọng đổi mới công nghệ, ứng dụng công nghệ mới, đa dạng hóa sản phẩm; thúc đẩy đầu tư xử lý ô nhiễm môi trường trong các nhà máy chế biến thủy sản.
- Đối với lĩnh vực hàng hải, cần thực hiện chủ trương phấn đấu một số tỉnh, thành phố ven biển đến hết năm 2025 sẽ có cảng biển chuyên nghiệp như: cảng chuyên dùng cho du lịch, cảng chuyên dịch vụ hậu cần cảng… ; đồng thời, phát triển một số cảng theo hướng phục vụ tàu container, tàu chuyên dụng có trọng tải lớn… Đẩy mạnh phát triển đội tàu vận tải biển với cơ cấu hợp lý, ứng dụng công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu thị trường vận tải nội địa, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng vận tải, từng bước gia tăng, chiếm lĩnh thị phần quốc tế.
- Đối với khai thác dầu khí và tài nguyên khoáng sản, cần nâng cao năng lực của ngành dầu khí và các ngành công nghiệp tài nguyên, khoáng sản biển khác; từng bước làm chủ công nghệ tìm kiếm, thăm dò, gia tăng trữ lượng dầu khí; nghiên cứu, thăm dò các bể trầm tích mới, các dạng hydrocarbon phi truyền thống; gắn việc tìm kiếm, thăm dò dầu khí với điều tra, khảo sát, đánh giá tiềm năng và tài nguyên, khoáng sản biển khác, khoáng sản biển sâu, đặc biệt là những loại khoáng sản có trữ lượng lớn, giá trị cao. Kết hợp hài hòa giữa khai thác, chế biến với bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học biển.
- Đối với năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới, thúc đẩy đầu tư xây dựng, khai thác điện gió, điện mặt trời và các dạng năng lượng tái tạo khác phù hợp với quy hoạch. Phát triển ngành chế tạo thiết bị phục vụ ngành công nghiệp năng lượng tái tạo.
- Đối với công nghiệp ven biển, phải dựa trên cơ sở quy hoạch, cân nhắc lợi thế về điều kiện tự nhiên của từng vùng, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao thân thiện với môi trường, công nghiệp nền tảng, công nghệ nguồn.
- Đối với phát triển du lịch biển “xanh”: cần tăng cường hoạt động bảo vệ môi trường du lịch biển với việc nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường biển trong lĩnh vực du lịch; nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách khuyến khích phát triển du lịch biển “xanh” với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương vùng ven biển.
Thứ tư, đổi mới quản trị biển theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả; bảo đảm hài hòa lợi ích giữa địa phương có biển và địa phương không có biển, giữa khai thác và sử dụng với bảo tồn biển, giữa các bên liên quan với xây dựng quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Thứ năm, đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế về quản lý, sử dụng, bảo tồn và phát triển bền vững biển, đại dương; nghiên cứu tiếp tục ký kết, tham gia những điều ước, thỏa thuận khu vực và quốc tế quan trọng về biển, ưu tiên các lĩnh vực quản lý tài nguyên biển, bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển. Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác, tranh thủ sự hỗ trợ của các đối tác, các tổ chức quốc tế và khu vực để phát triển nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng vùng biển, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại vào các ngành kinh tế biển, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Thứ sáu, huy động nguồn lực, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư cho phát triển bền vững kinh tế biển, xây dựng các tập đoàn kinh tế biển mạnh. Theo đó, cần đẩy mạnh thu hút nguồn lực từ các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Chủ động thu hút các nhà đầu tư lớn, có công nghệ nguồn, công nghệ cao, hiện đại và có trình độ quản lý biển tiên tiến nhằm nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các ngành kinh tế biển theo hướng bền vững.
Kết luận:
Trong thời gian qua, bên cạnh một số kết quả đạt được từ việc khai thác tài nguyên biển phục vụ phát triển kinh tế bền vững, còn tồn tại một số hạn chế nổi bật[7], đó là: (i) không gian biển chưa được khai thác, sử dụng tổng hợp hiệu quả; chưa phát huy được vị thế, tiềm năng là “cửa ngõ” vươn ra thế giới để đẩy mạnh phát triển kinh tế; (ii) một số cơ chế, chính sách, pháp luật được xây dựng và ban hành còn chậm ảnh hưởng đến công tác quản lý khai thác, sử dụng và bảo vệ biển; (iii) quy mô kinh tế biển còn nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế địa kinh tế; cơ cấu ngành, nghề chưa hợp lý; mới tận dụng, khai thác hiệu quả được một phần vùng biển quốc gia, chưa có đủ điều kiện để vươn ra vùng biển quốc tế; (iv) liên kết vùng giữa các vùng biển, ven biển, vùng nội địa, địa phương có biển với địa phương không có biển và giữa các ngành, lĩnh vực còn thiếu chặt chẽ, kém hiệu quả; (v) một số ngành kinh tế biển mũi nhọn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra, một số ngành thiếu sức cạnh tranh, đóng góp cho nền kinh tế còn thấp; (vi) kết cấu hạ tầng vùng biển, ven biển chưa được xây dựng đồng bộ và hiện đại… Vì vậy, cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp trên, cùng tiềm năng sẵn có, Việt Nam có nhiều động lực để trở thành quốc gia “mạnh về biển, giàu từ biển”./.
Quỳnh Vũ
Tài liệu tham khảo:
1. Hoàng Vân (2024), Kinh tế biển xanh - Bài 1: Hướng ra biển là thịnh vượng, https://baotintuc.vn/bien-dao-viet-nam/kinh-te-bien-xanh-bai-1-huong-ra-bien-la-thinh-vuong-20240212092346526.htm, truy cập ngày 30/3/2025.
2. Minh Trang (2024), Quy mô kinh tế biển của Việt Nam còn nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế, https://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/quy-mo-kinh-te-bien-cua-viet-nam-con-nho-chua-tuong-xung-voi-tiem-nang-loi-the-130191.html, truy cập ngày 30/3/2025.
3. Tú Quyên (2024), Những thách thức trong phát triển kinh tế biển (Bài 2), https://thiennhienmoitruong.vn/nhung-thach-thuc-trong-phat-trien-kinh-te-bien-bai-2.html, truy cập ngày 30/3/2025.
4. Thùy Dương (2024), Kinh tế biển xanh tạo động lực phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam, https://vnu.edu.vn/ttsk/?C1654/N35407/Kinh-te-bien-xanh-tao-dong-luc-phat-trien-ben-vung-kinh-te-bien-Viet-Nam.htm, truy cập ngày 30/3/2025.
5. Phương Thúy và nhóm PV, BTV (2023), Giải pháp phát triển bền vững một số ngành kinh tế biển, https://vietnamnet.vn/giai-phap-phat-trien-ben-vung-mot-so-nganh-kinh-te-bien-2254850.html, truy cập ngày 30/3/2025.
6. Hồng Nhung (2024), Đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, http://baokiemtoan.vn/dua-viet-nam-tro-thanh-quoc-gia-manh-ve-bien-giau-tu-bien-32390.html, truy cập ngày 30/3/2025.
[1] Kinh tế biển xanh - Bài 1: Hướng ra biển là thịnh vượng, https://baotintuc.vn/bien-dao-viet-nam/kinh-te-bien-xanh-bai-1-huong-ra-bien-la-thinh-vuong-20240212092346526.htm, truy cập ngày 30/3/2025.
[2] Kinh tế biển xanh - Bài 1, Tlđd.
[3] Quy mô kinh tế biển của Việt Nam còn nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế, https://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/quy-mo-kinh-te-bien-cua-viet-nam-con-nho-chua-tuong-xung-voi-tiem-nang-loi-the-130191.html, truy cập ngày 30/3/2015.
[4] Những thách thức trong phát triển kinh tế biển (Bài 2), https://thiennhienmoitruong.vn/nhung-thach-thuc-trong-phat-trien-kinh-te-bien-bai-2.html, truy cập ngày 30/3/2025.
[5] Kinh tế biển xanh tạo động lực phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam, https://vnu.edu.vn/ttsk/?C1654/N35407/Kinh-te-bien-xanh-tao-dong-luc-phat-trien-ben-vung-kinh-te-bien-Viet-Nam.htm, truy cập ngày 30/3/2025.
[6] Giải pháp phát triển bền vững một số ngành kinh tế biển, https://vietnamnet.vn/giai-phap-phat-trien-ben-vung-mot-so-nganh-kinh-te-bien-2254850.html, truy cập ngày 30/3/2025.
[7] Đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, http://baokiemtoan.vn/dua-viet-nam-tro-thanh-quoc-gia-manh-ve-bien-giau-tu-bien-32390.html, truy cập ngày 30/3/2025.