Nghị định số 79/2025/NĐ-CP quy định chi tiết Điều 63, Điều 64 và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 về kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa và xử lý văn bản quy phạm pháp luật. Về cơ bản, Nghị định số 79/2025/NĐ-CP tiếp tục kế thừa quy định tại Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 154/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 và Nghị định số 59/2024/NĐ-CP ngày 25/5/2024 (Nghị định số 34/2016/NĐ-CP) về kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa và xử lý văn bản quy phạm pháp luật đã được thực tiễn kiểm nghiệm là phù hợp; đồng thời, sửa đổi, bổ sung các quy định mới nhằm khắc phục các hạn chế, bất cập, vướng mắc trong thực hiện hoạt động kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa và xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
So với Nghị định số 34/2016/NĐ-CP, Nghị định số 79/2025/NĐ-CP có nhiều điểm mới quan trọng, nổi bật, cụ thể như sau:
1. Nội dung mới về phạm vi điều chỉnh và bố cục
Nghị định số 34/2016/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, còn Nghị định số 79/2025/NĐ-CP chỉ quy định chi tiết Điều 63, Điều 64 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật về kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa và xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Nghị định số 79/2025/NĐ-CP bố cục gồm 05 chương, 61 điều và 01 phụ lục kèm theo (05 biểu mẫu về rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật).
2. Nội dung mới về công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật
Một là, quy định bổ sung một số khái niệm về “tự kiểm tra văn bản”, “kiểm tra văn bản theo thẩm quyền”, “cơ quan kiểm tra văn bản” nhằm thống nhất cách hiểu, phân biệt giữa các hoạt động, tạo thuận lợi cho quá trình tiếp cận, thực hiện, áp dụng văn bản (Điều 2 Nghị định số 79/2025/NĐ-CP).
Hai là, bổ sung nguyên tắc kiểm tra “bảo đảm thực hiện quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước đối với việc kiểm tra, xử lý văn bản có nội dung thuộc phạm vi bí mật nhà nước” (Điều 3 Nghị định số 79/2025/NĐ-CP) tạo sự thống nhất, thuận lợi khi thực hiện hoạt động kiểm tra văn bản có nội dung thuộc phạm vi bí mật nhà nước.
Ba là, bổ sung một số đối tượng văn bản được kiểm tra (Điều 4 Nghị định số 79/2025/NĐ-CP), gồm:
(i) Văn bản quy phạm pháp luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành.
(ii) Văn bản hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 61 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025.
Việc bổ sung các đối tượng (i), (ii) trên nhằm phù hợp với Điều 63 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 về trách nhiệm tự kiểm tra văn bản và loại văn bản mới được quy định tại Điều 61 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 (văn bản hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật).
(iii) Văn bản quy phạm pháp luật quy định từ khoản 3 đến khoản 14 Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 có nội dung thuộc phạm vi bí mật nhà nước do người có thẩm quyền xác định.
Nội dung này được bổ sung theo đề nghị của Bộ Công an, nhằm “thu hút” các quy định hiện hành về kiểm tra, xử lý văn bản có nội dung thuộc phạm vi bí mật nhà nước (tại Quyết định số 42/2009/QĐ-TTg ngày 16/3/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định về kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật có nội dung thuộc bí mật nhà nước) vào Nghị định số 79/2025/NĐ-CP, tạo sự thống nhất, thuận lợi khi thực hiện hoạt động kiểm tra văn bản có nội dung thuộc phạm vi bí mật nhà nước.
Bốn là, đối với nội dung kiểm tra, ngoài những nội dung về thẩm quyền ban hành, nội dung văn bản, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản… tương tự như Nghị định số 34/2016/NĐ-CP, có điểm mới được bổ sung: “tuân thủ quy định của pháp luật về xác định bí mật nhà nước và độ mật của bí mật nhà nước trong văn bản có nội dung thuộc phạm vi bí mật nhà nước” (khoản 5 Điều 5 Nghị định số 79/2025/NĐ-CP).
Năm là, sửa đổi, bổ sung quy định về văn bản trái pháp luật được xử lý (khoản 1 Điều 7 Nghị định số 79/2025/NĐ-CP), theo đó:
- Sửa đổi, bổ sung các trường hợp văn bản quy phạm pháp luật vi phạm trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản được xác định là trái pháp luật phải xử lý, đó là văn bản thuộc một trong các trường hợp sau: không tổ chức lấy ý kiến hồ sơ dự thảo văn bản; không thực hiện thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản; văn bản ban hành theo trình tự thủ tục rút gọn hoặc trong trường hợp đặc biệt nhưng không có sự đồng ý hoặc chỉ đạo của cơ quan, người có thẩm quyền; dự thảo văn bản được thông qua không đúng quy định của pháp luật.
- Bổ sung 02 trường hợp văn bản trái pháp luật: “văn bản hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật vi phạm Điều 61 của Luật”[1] và “văn bản quy phạm pháp luật không tuân thủ quy định của pháp luật về xác định bí mật nhà nước hoặc độ mật của bí mật nhà nước trong văn bản có nội dung thuộc phạm vi bí mật nhà nước”. Việc bổ sung các trường hợp này để tương ứng với đối tượng văn bản được kiểm tra.
Sáu là, bổ sung quy định về tiếp nhận, xử lý kiến nghị, phản ánh của cơ quan, tổ chức, cá nhân về văn bản có dấu hiệu trái pháp luật (Điều 8 Nghị định số 79/2025/NĐ-CP).
Việc bổ sung quy định này nhằm phù hợp với quy định về căn cứ kiểm tra văn bản quy định tại Điều 63 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025, qua đó bảo đảm sự kết nối, liên thông giữa các hoạt động xây dựng, tổ chức thi hành và kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật, góp phần hỗ trợ, bổ sung cho các công tác này được thực hiện hiệu quả.
Bảy là, bổ sung quy định về trách nhiệm tự kiểm tra văn bản như sau:
- Bổ sung trách nhiệm tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật do mình ban hành hoặc liên tịch ban hành của các chủ thể: Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (Điều 9 Nghị định số 79/2025/NĐ-CP).
- Bổ sung trách nhiệm giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tự kiểm tra văn bản do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành (Điều 10 Nghị định số 79/2025/NĐ-CP), theo đó:
+ Quy định trách nhiệm chung: “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có trách nhiệm giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thực hiện tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật do bộ, cơ quan ngang bộ chủ trì soạn thảo, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc liên tịch ban hành và văn bản hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về ngành, lĩnh vực do bộ, cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm quản lý”.
+ Bổ sung trách nhiệm cụ thể của một số bộ trưởng như sau:
Bộ trưởng Bộ Tư pháp giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tự kiểm tra các văn bản không có nội dung thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các trường hợp: (i) khi nhận được yêu cầu, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoặc khi văn bản đã được các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ khác thực hiện tự kiểm tra nhưng Bộ Tư pháp vẫn nhận được kiến nghị, phản ánh; (ii) văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ có dấu hiệu chứa quy phạm pháp luật nhưng không được ban hành đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tự kiểm tra văn bản theo quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 10 Nghị định số 79/2025/NĐ-CP đối với văn bản do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo, trình ban hành hoặc liên tịch ban hành.
Bộ trưởng Bộ Công an giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tự kiểm tra văn bản có nội dung thuộc phạm vi bí mật nhà nước theo quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 10 Nghị định số 79/2025/NĐ-CP, trừ trường hợp nội dung thuộc phạm vi bí mật nhà nước thuộc phạm vi ngành, lĩnh vực do Bộ Quốc phòng quản lý.
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tự kiểm tra văn bản có nội dung thuộc phạm vi bí mật nhà nước thuộc phạm vi ngành, lĩnh vực do Bộ Quốc phòng quản lý theo quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 10 Nghị định số 79/2025/NĐ-CP.
Tám là, bổ sung, quy định cụ thể thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, văn bản có dấu hiệu chứa quy phạm pháp luật, văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật có nội dung thuộc phạm vi bí mật nhà nước. Thẩm quyền này được cụ thể tại các điều khoản: khoản 4, khoản 5 Điều 14 và khoản 3, khoản 4 Điều 20 Nghị định số 79/2025/NĐ-CP.
Trước đây, Nghị định số 34/2016/NĐ-CP chỉ quy định chung tại Điều 117 về kiểm tra văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nước: việc kiểm tra các văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước và các quy định pháp luật có liên quan[2].
Các quy định bổ sung thẩm quyền, trách nhiệm về kiểm tra, tự kiểm tra văn bản nêu trên tại Nghị định số 79/2025/NĐ-CP nhằm bảo đảm phù hợp, tương ứng với đối tượng kiểm tra văn bản mới được quy định. Bên cạnh đó, với số lượng văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành chiếm tỷ lệ lớn trong hệ thống pháp luật nên việc tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ được quy định giao cho các Bộ, cơ quan ngang bộ chủ trì soạn thảo thực hiện (tương tự như các Bộ, cơ quan ngang bộ tự kiểm tra văn bản do mình ban hành). Đồng thời, để bảo đảm tính khách quan, toàn diện trong thực hiện nhiệm vụ này nhằm hướng tới mục tiêu bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội, Nghị định số 79/2025/NĐ-CP quy định trong một số trường hợp cụ thể, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có trách nhiệm thực hiện kiểm tra. Riêng về phạm vi bảo vệ bí mật nhà nước, theo quy định của Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018, Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ bí mật nhà nước, Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ bí mật nhà nước thuộc phạm vi quản lý, do đó, tại Nghị định số 79/2025/NĐ-CP có những quy định cụ thể về thẩm quyền, trách nhiệm giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong kiểm tra văn bản có nội dung thuộc phạm vi bí mật nhà nước.
Chín là, bổ sung quy định về hồ sơ tự kiểm tra văn bản (Điều 13 Nghị định số 79/2025/NĐ-CP). Đồng thời, bổ sung quy định đối với văn bản có nội dung thuộc phạm vi bí mật nhà nước, hồ sơ kiểm tra/tự kiểm tra văn bản được lưu trữ theo quy định của pháp luật về lưu trữ và pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước (khoản 2 Điều 13, khoản 2 Điều 19 Nghị định số 79/2025/NĐ-CP).
Mười là, bổ sung quy định thời hạn tự kiểm tra văn bản, theo đó: tự kiểm tra văn bản quy định tại điểm a khoản 2 Điều 63 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025[3] phải được thực hiện trong thời gian 45 ngày đối với văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; trong thời gian 10 ngày đối với văn bản của chính quyền địa phương; trong thời gian 05 ngày làm việc đối với văn bản được xây dựng, ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn hoặc trong trường hợp đặc biệt kể từ ngày văn bản được thông qua hoặc ký ban hành.
Quy định này nhằm tăng cường trách nhiệm tự kiểm tra văn bản của các cơ quan, cá nhân ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hạn chế tối đa văn bản có nội dung trái pháp luật phát sinh hiệu lực trên thực tiễn.
Mười một là, bổ sung quy định về kế hoạch kiểm tra văn bản và thành lập đoàn kiểm tra văn bản (Điều 16 Nghị định số 79/2025/NĐ-CP).
Quy định bổ sung nhằm cụ thể hóa, quy định chi tiết căn cứ thực hiện kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền tại Điều 63 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025.
Mười hai là, xác định rõ 02 hình thức xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật (khoản 1 Điều 23 Nghị định số 79/2025/NĐ-CP), đó là: (i) đình chỉ việc thi hành văn bản; (ii) bãi bỏ toàn bộ hoặc một phần văn bản và dẫn chiếu việc xử lý theo quy định tại Điều 4 Nghị định số 78/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP).
Trong quy định tại Điều 4 Nghị định số 78/2025/NĐ-CP, văn bản trái pháp luật có thể được xử lý bằng hình thức ban hành quyết định hành chính để bảo đảm tính kịp thời trong xử lý văn bản trái pháp luật. Với hình thức xử lý bằng quyết định hành chính mới có thể bảo đảm được thời hạn xử lý là 30 ngày theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Nghị định số 79/2025/NĐ-CP.
Mười ba là, bỏ quy định thời gian gửi văn bản đến cơ quan kiểm tra tại Điều 121 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP.
Việc bỏ quy định này để phù hợp với quy định tại Điều 9 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 về gửi, lưu trữ văn bản quy phạm pháp luật. Cơ quan kiểm tra văn bản có thể khai thác văn bản thuộc đối tượng kiểm tra trên Công báo điện tử, Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật hoặc yêu cầu cung cấp theo quy định.
Mười bốn là, bổ sung quy định về trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị có liên quan trong công tác kiểm tra, xử lý văn bản (Điều 31 Nghị định số 79/2025/NĐ-CP). Cụ thể, cơ quan, đơn vị có phạm vi quản lý ngành, lĩnh vực liên quan đến nội dung văn bản được kiểm tra phải kịp thời phối hợp, cung cấp thông tin, tài liệu, ý kiến và cử đại diện phù hợp tham gia các cuộc họp kiểm tra văn bản; cử đại diện tham gia Đoàn kiểm tra theo đề nghị của cơ quan, người có thẩm quyền, trách nhiệm kiểm tra văn bản.
Quy định này xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, nhằm tạo cơ sở pháp lý và thuận lợi trong công tác phối hợp giữa các cơ quan.
Mười lăm là, bỏ quy định về kiến nghị xử lý đối với cơ quan, người ban hành văn bản trái pháp luật tại Điều 108 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP và quy định về việc xem xét, xử lý trách nhiệm đối với cơ quan, người ban hành văn bản trái pháp luật tại Điều 134 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP.
Việc bỏ các quy định nêu trên để phù hợp với phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 79/2025/NĐ-CP.
Mười sáu là, bỏ quy định về việc xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản tại các điều 178, 185, 186 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP.
Điều này được lý giải vì quá trình thực hiện quy định trên không phát huy hiệu quả, không cần thiết; nguồn văn bản, thông tin liên quan để phục vụ việc kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản sẽ được khai thác từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật, Công báo điện tử.
3. Nội dung mới về công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật
Thứ nhất, bỏ quy định nguồn văn bản rà soát, hệ thống hóa tại Điều 141 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP.
Việc bỏ quy định trên do không cần thiết, các cơ quan rà soát, hệ thống hóa phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của kết quả rà soát nên cần phải thực hiện rà soát, hệ thống hóa văn bản bằng các văn bản có giá trị sử dụng.
Thứ hai, bỏ các quy định về: trình tự rà soát theo căn cứ là văn bản, trình tự rà soát theo căn cứ là tình hình phát triển kinh tế - xã hội, lập Phiếu rà soát văn bản, lập hồ sơ rà soát văn bản tại các điều từ Điều 149 đến Điều 152 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP.
Việc bỏ các quy định này vì không cần thiết, việc phân công, tổ chức rà soát là công việc nội bộ của các cơ quan; cách thức thể hiện kết quả rà soát văn bản do cơ quan thực hiện rà soát quyết định linh hoạt với phạm vi rà soát, nội dung rà soát; việc lập hồ sơ sẽ thực hiện theo quy định về lập hồ sơ công việc, lưu trữ theo quy định.
Thứ ba, bỏ quy định về quyết định việc rà soát văn bản theo chuyên đề, lĩnh vực, địa bàn tại Điều 160 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP.
Quy định trên được lược bỏ trong Nghị định số 79/2025/NĐ-CP vì nội dung này đã được quy định tại Điều 64 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025.
Thứ tư, trách nhiệm, thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện trong công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại điều khoản chuyển tiếp trong Nghị định số 79/2025/NĐ-CP để phù hợp với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 khi không quy định thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương cấp xã.
4. Về nhân lực, cơ sở vật chất, kinh phí cho công tác kiểm tra, xử lý và rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật
Quy định rõ hơn về nhân lực, cơ sở vật chất, kinh phí cho công tác kiểm tra, xử lý và rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có quy định: (i) Cơ quan, người có thẩm quyền có trách nhiệm bảo đảm và ưu tiên nguồn lực đầu tư cơ sở vật chất, hiện đại hóa hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị làm việc, ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số phục vụ công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa và xử lý văn bản quy phạm pháp luật; ưu tiên đầu tư các giải pháp ứng dụng dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo trong hỗ trợ kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật nhằm phát hiện nhanh, kịp thời, chính xác nội dung trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp phục vụ hiệu quả công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. (ii) Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, khối lượng, tính chất và đặc điểm công việc cụ thể, cơ quan, người có thẩm quyền có trách nhiệm bố trí đầy đủ biên chế có năng lực, trình độ phù hợp trong tổng số biên chế được giao để thực hiện hiệu quả công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa và xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Nghị định số 79/2025/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/4/2025, cùng với thời điểm có hiệu lực của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025.
Uyên Nhi
(Ảnh: Internet)
[1] Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025.
[2] Việc kiểm tra văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nước được thực hiện theo Quyết định số 42/2009/QĐ-TTg ngày 16/3/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định về kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật có nội dung thuộc bí mật nhà nước (do Bộ Công an chủ trì tham mưu, soạn thảo).
[3] Điểm a khoản 2 Điều 63 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 quy định: “2. Căn cứ thực hiện tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật: a) Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành”.