Thứ ba 07/10/2025 10:36
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Phát huy truyền thống - Bộ, ngành Tư pháp tiếp tục đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Từ những ngày đầu kiến tạo nền Tư pháp dân chủ Nhân dân cho đến nay, chức năng, nhiệm vụ của Bộ, ngành Tư pháp có những thay đổi và bước phát triển thăng trầm khác nhau nhưng về cơ bản, với hệ thống tổ chức đồng bộ từ trung ương đến địa phương, vị thế, vai trò của Bộ, ngành Tư pháp ngày càng được khẳng định, xứng đáng là “cơ quan trọng yếu của chính quyền”, đóng vai trò nòng cốt trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, phát triển nền Tư pháp Nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, góp phần tích cực trong công cuộc đấu tranh thống nhất đất nước, bảo vệ biên giới, phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước.

Ngày 28/8/1945, Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập và công bố Nội các thống nhất quốc gia, trong đó, Bộ Tư pháp là một trong mười ba bộ đầu tiên được thành lập, đánh dấu sự hình thành của Bộ, ngành Tư pháp. Từ những ngày đầu kiến tạo nền Tư pháp dân chủ Nhân dân cho đến nay, chức năng, nhiệm vụ của Bộ, ngành Tư pháp có những thay đổi và bước phát triển thăng trầm khác nhau nhưng về cơ bản, với hệ thống tổ chức đồng bộ từ trung ương đến địa phương, vị thế, vai trò của Bộ, ngành Tư pháp ngày càng được khẳng định, xứng đáng là “cơ quan trọng yếu của chính quyền[1]”, đóng vai trò nòng cốt trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, phát triển nền Tư pháp Nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN), góp phần tích cực trong công cuộc đấu tranh thống nhất đất nước, bảo vệ biên giới, phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước. Vị trí, vai trò của Bộ, ngành Tư pháp được thể hiện rõ qua kết quả công tác trong giai đoạn 2015 - 2025.

1. Sơ lược quá trình phát triển của Bộ Tư pháp từ năm 1945 đến 2015

Ngày 30/11/1945, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Trọng Khánh ký ban hành Nghị định số 37-TP, đặt nền móng đầu tiên cho tổ chức và hoạt động của Bộ Tư pháp. Theo Nghị định này, Bộ Tư pháp có chức năng soạn thảo và tổ chức thi hành các đạo luật về quyền tự do, dân chủ, dân sự, hình sự, tổ chức Tòa án, thi hành án, quản lý cán bộ tư pháp và hợp tác tư pháp quốc tế.

Ngày 06/01/1946, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên bầu ra Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại phiên họp đầu tiên (ngày 02/3/1946), Quốc hội thành lập Chính phủ Liên hiệp kháng chiến, Bộ Tư pháp tiếp tục tổ chức hoạt động theo Nghị định số 37-TP và được kiện toàn trong các năm tiếp theo. Ngày 11/02/1960, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 01-CP xác định chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp, gồm: nghiên cứu hệ thống Tòa án, soạn thảo luật, phổ biến pháp luật, quản lý đội ngũ luật sư, công chứng viên, đào tạo cán bộ và hướng dẫn công tác tư pháp địa phương.

Trong giai đoạn từ năm 1945 đến đầu thập niên 1960, dù đất nước còn khó khăn, chiến tranh ác liệt, Bộ Tư pháp đã nỗ lực tổ chức hệ thống tư pháp dân chủ Nhân dân. Dưới sự chỉ đạo của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ đã (i) soạn thảo các sắc lệnh quan trọng, đặt nền móng quản lý xã hội bằng pháp luật[2]; (ii) góp phần xây dựng Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta; (iii) tổ chức hệ thống cơ quan tư pháp tại cả ba miền Bắc, Trung, Nam theo Sắc lệnh số 63/SL ngày 22/11/1945; (iv) thực hiện thành công cuộc “Cải cách tư pháp năm 1950” trên ba lĩnh vực: lập pháp, tố tụng và tổ chức ngành Tư pháp[3]. Những kết quả này tạo nền tảng cho hệ thống pháp luật dân chủ, góp phần bảo đảm quyền công dân, phục vụ kháng chiến và kiến thiết đất nước.

Trong giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1981, nước ta xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành kháng chiến giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 đã thiết lập hệ thống Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân độc lập với Chính phủ. Theo Luật Tổ chức Chính phủ năm 1960, Bộ Tư pháp không nằm trong cơ cấu Chính phủ. Nhiệm vụ do Bộ Tư pháp trước đây thực hiện được phân, giao cho Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và một phần cho chính quyền địa phương. Từ năm 1960 đến năm 1972, do yêu cầu của tình hình đất nước trong bối cảnh chiến tranh và tập trung vào nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, công tác quản lý nhà nước về tư pháp và pháp luật không còn được tổ chức tập trung tại một cơ quan thống nhất ở cấp Trung ương. Các lĩnh vực công tác tư pháp, pháp luật được duy trì, lồng ghép trong hoạt động của các bộ, ngành liên quan. Đây là giai đoạn ngành Tư pháp tuy không có tổ chức tập trung, nhưng vẫn âm thầm đóng góp vào sự nghiệp xây dựng pháp luật, giữ gìn kỷ cương trong điều kiện đặc biệt của đất nước. Giai đoạn này cũng đặt nền móng để đến năm 1972, cơ quan quản lý nhà nước thống nhất về pháp luật và tư pháp ở trung ương được tái lập, đánh dấu bước chuyển mình quan trọng của ngành Tư pháp trong thời kỳ mới.

Ở miền Nam, trong các ngày 06, 07 và 08/6/1969, Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam, gồm các đại biểu đại diện cho các chính đảng, các dân tộc, tôn giáo, các đoàn thể, các tầng lớp Nhân dân, các lực lượng vũ trang, đoàn thanh niên xung phong (các lực lượng yêu nước ở miền Nam) đã họp và thông qua bản Nghị quyết thành lập chế độ Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam gồm 08 bộ, trong đó có Bộ Tư pháp[4].

Ngày 09/10/1972, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 190-CP thành lập Ủy ban Pháp chế thuộc Hội đồng Chính phủ, có nhiệm vụ xây dựng và thi hành pháp luật, tổ chức công tác pháp chế, hành chính tư pháp, đào tạo cán bộ pháp luật, nghiên cứu và tổng kết thực tiễn. Hệ thống pháp chế các bộ, ngành, địa phương được hình thành, đảm nhiệm hai chức năng chính: quản lý công tác pháp luật và tư vấn pháp lý cho cơ quan hành chính. Sau năm 1975, các Ban Pháp chế được thành lập hầu hết ở các tỉnh phía Nam.

Ngày 22/11/1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 143/HĐBT về việc tái lập Bộ Tư pháp, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong tiến trình khôi phục và phát triển hệ thống tư pháp sau một thời kỳ gián đoạn. Theo Nghị định này, Bộ Tư pháp được giao nhiều chức năng, nhiệm vụ quan trọng như: xây dựng và hoàn thiện pháp luật; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; quản lý tổ chức Tòa án nhân dân địa phương; thực hiện công tác bổ trợ tư pháp; đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp luật. Một dấu mốc nổi bật là việc hình thành hệ thống tổ chức ngành Tư pháp thống nhất từ trung ương đến cơ sở với ba cấp: cấp tỉnh thành lập Sở Tư pháp, cấp huyện có Phòng Tư pháp và cấp xã tổ chức Ban Tư pháp. Đặc biệt, với Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993, Nghị định số 30/CP ngày 02/6/1993 của Chính phủ, hệ thống thi hành án dân sự được thành lập và Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ quản lý thống nhất lĩnh vực này trên phạm vi toàn quốc.

Từ nền tảng tổ chức được khôi phục và từng bước củng cố, Bộ, ngành Tư pháp đã không ngừng trưởng thành, phát huy vai trò tham mưu chiến lược trong xây dựng Nhà nước XHCN. Trong giai đoạn 1981 - 2015, Bộ, ngành Tư pháp được Đảng, Nhà nước tin tưởng giao thực hiện nhiều trọng trách quan trọng, góp phần kiến tạo, hoàn thiện thể chế, đưa đất nước phát triển. Bộ, ngành Tư pháp đã tham mưu thực hiện và trực tiếp tham gia xây dựng thành công nhiều nghị quyết quan trọng của Đảng, định hình hệ thống pháp luật, tạo cơ sở, tiền đề đưa đất nước phát triển nhanh, mạnh và vững chắc, như Chỉ thị số 57-CT/TW ngày 08/8/1995 của Ban Bí thư khóa VII về hợp tác với nước ngoài về pháp luật và cải cách hành chính; Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

Đồng thời, Bộ Tư pháp đóng vai trò nòng cốt trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, quản lý thi hành pháp luật, phát triển và thực hiện quản lý thành công các lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, tư pháp quốc tế, thi hành án dân sự, hành chính… Bộ Tư pháp đã trực tiếp tham mưu, xây dựng nhiều văn bản pháp luật quan trọng như các bản Hiến pháp năm 1992, năm 2013; Bộ luật Dân sự năm 1995, năm 2005, năm 2015; Bộ luật Hình sự năm 1985, năm 1999; Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, năm 2000, năm 2014; Luật Thi hành án dân sự năm 2008; Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009; Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và nhiều đạo luật quan trọng khác của đất nước.

Những thành công, kết quả đạt được trong giai đoạn trước năm 2015 đã tạo cơ sở, tiền đề để Bộ, ngành Tư pháp tiếp tục phát huy, khẳng định vị trí, vai trò tiên phong, quan trọng trong tham mưu, xây dựng chiến lược, định hình và hoàn thiện thể chế, pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, thi hành án dân sự, hợp tác quốc tế về pháp luật, tư pháp trong giai đoạn 2015 - 2025 và những năm tiếp theo.

2. Kết quả hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp trong giai đoạn 2015 - 2025

Phát huy những kết quả, thành tựu và kinh nghiệm đã đạt được của các giai đoạn trước năm 2015, bước vào giai đoạn 2015 - 2025, Bộ, ngành Tư pháp tiếp tục có nhiều đóng góp đặc biệt quan trọng, khẳng định vị trí, vai trò nòng cốt trong công cuộc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Một số kết quả nổi bật của Bộ, ngành Tư pháp trong giai đoạn 2015 - 2025 như sau:

Thứ nhất, chủ động, sáng tạo, tham mưu, đề xuất những định hướng chính sách lớn, then chốt của Đảng trong lĩnh vực quản lý của Bộ, ngành Tư pháp. Với quyết tâm thực hiện đột phá chiến lược về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, Bộ, ngành Tư pháp đã tích cực nghiên cứu, tham mưu giúp Chính phủ, Quốc hội đề xuất những định hướng chính sách lớn, then chốt trong cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam để triển khai thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội Đảng khóa XII, khóa XIII và các Nghị quyết Hội nghị Trung ương khóa XII, khóa XIII[5].

Trên cơ sở kế thừa những bài học kinh nghiệm qua các thời kỳ, Bộ, ngành Tư pháp vinh dự được tham gia toàn diện vào quá trình xây dựng Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW). Nghị quyết số 27-NQ/TW là cơ sở chính trị quan trọng, thể hiện bước phát triển mới về tư duy lý luận và nhận thức của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đồng thời, xác định rõ định hướng xây dựng Nhà nước hiện đại, dân chủ, pháp quyền, phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Ngay sau khi Nghị quyết số 27-NQ/TW được ban hành, Bộ Tư pháp đã chủ động phối hợp với các bộ, ngành tham mưu xây dựng Chương trình hành động của Chính phủ. Trên cơ sở đề xuất của Bộ Tư pháp, ngày 12/5/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 77/NQ-CP về chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW.

Phát huy truyền thống - Bộ, ngành Tư pháp tiếp tục đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới
Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ, Quốc hội chụp ảnh lưu niệm cùng các đại biểu dự buổi làm việc của đồng chí Tổng Bí thư với Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp, ngày 07/11/2024.

Đặc biệt, trong bối cảnh toàn hệ thống chính trị đang nỗ lực thực hiện các mục tiêu lớn để đưa đất nước vững bước bước vào kỷ nguyên phát triển mới - kỷ nguyên của hội nhập sâu, rộng, chuyển đổi số toàn diện và phát triển nhanh, bền vững, Bộ Tư pháp tiếp tục khẳng định rõ vai trò là cơ quan tham mưu chiến lược của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực pháp luật. Trên cơ sở Kết luận của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm tại buổi làm việc với Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp (ngày 07/11/2024), Bộ Tư pháp đã chủ trì tham mưu, đề xuất và trình Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về “Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” (Nghị quyết số 66-NQ/TW). Nghị quyết số 66-NQ/TW không chỉ là kết tinh của tư duy đổi mới về thể chế, mà còn là dấu mốc có ý nghĩa chiến lược trong việc khơi thông các “điểm nghẽn” về pháp luật, nâng cao năng lực quản trị quốc gia bằng pháp quyền, góp phần thực hiện thành công khát vọng phát triển đất nước đến năm 2045. Đây là một trong bốn nghị quyết trọng điểm[6], tạo nên “bộ tứ trụ cột” định hình khung khổ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Nhằm hiện thực hóa tinh thần và mục tiêu của Nghị quyết số 66-NQ/TW, Bộ Tư pháp đã tham mưu thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban. Đảng ủy Bộ Tư pháp được giao thực hiện nhiệm vụ là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo - vai trò có ý nghĩa then chốt trong việc điều phối và bảo đảm thực thi đồng bộ các nội dung đổi mới thể chế, pháp luật trên phạm vi toàn quốc.

Để triển khai kịp thời Nghị quyết số 66-NQ/TW, Nghị quyết số 140/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW (Nghị quyết số 140/NQ-CP) và để làm tốt vai trò cơ quan Thường trực của Ban Chỉ đạo về hoàn thiện thể chế, pháp luật, Đảng ủy Bộ Tư pháp đã khẩn trương ban hành Kế hoạch thực hiện[7], tham mưu Chính phủ trình Quốc hội ban hành Nghị quyết số 197/2025/QH15[8], Bộ Tư pháp ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 197/2025/QH15 của Quốc hội, Nghị quyết số 140/NQ-CP của Chính phủ, làm cơ sở để các cơ quan, đơn vị trong toàn ngành triển khai có trọng tâm, trọng điểm các nhiệm vụ được xác định tại Nghị quyết số 66-NQ/TW.

Vai trò tham mưu chủ động, kịp thời và sâu sát trong quá trình xây dựng và triển khai Nghị quyết số 66-NQ/TW, một lần nữa khẳng định sứ mệnh của Bộ, ngành Tư pháp trong kiến tạo xây dựng hệ thống pháp luật hiện đại, đồng bộ, thống nhất, khả thi và hiệu lực, hiệu quả - hệ thống pháp luật có khả năng đồng hành, dẫn dắt, tạo lợi thế cạnh tranh cho đất nước phát triển nhanh, mạnh, bền vững trong kỷ nguyên mới.

Đồng thời, Bộ Tư pháp đã tham mưu, giúp Ban Cán sự Đảng Chính phủ (nay là Đảng ủy Chính phủ), Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương tiến hành tổng kết thực hiện các nghị quyết “rường cột”, văn bản của Đảng trong lĩnh vực pháp luật, tư pháp, phổ biến, giáo dục pháp luật, quản lý nhà nước về luật sư, hợp tác quốc tế về pháp luật… để nhận diện đầy đủ kết quả đạt được, thời cơ, thách thức, từ đó, bổ sung các luận cứ, quan điểm chỉ đạo cho Đảng, Nhà nước về công tác pháp luật, tư pháp trong giai đoạn tiếp theo.

Thứ hai, công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) được tiến hành bài bản hơn ngay từ giai đoạn lập đề nghị, đề xuất chính sách đến xây dựng, ban hành. Bộ Tư pháp đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 (tại kỳ họp thứ 8) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (tại kỳ họp thứ 9). Qua đó, với tinh thần đổi mới tư duy trong công tác xây dựng pháp luật, quy trình xây dựng VBQPPL ngày càng được hoàn thiện, vừa bảo đảm chặt chẽ, vừa tạo sự linh hoạt cần thiết để xử lý kịp thời các vấn đề cấp bách, tháo gỡ các “điểm nghẽn”, khơi thông nguồn lực phục vụ phát triển đất nước. Bộ Tư pháp đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành chuẩn bị và tổ chức thực hiện tốt Chương trình lập pháp hàng năm; phối hợp chặt chẽ với Văn phòng Chính phủ tham mưu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ưu tiên dành nhiều thời gian cho công tác xây dựng pháp luật, thảo luận và cho ý kiến về dự thảo VBQPPL tại các Phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật; tổ chức các Hội nghị toàn quốc về công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế.

Trong giai đoạn 2015 - 2025, Bộ Tư pháp đã tham mưu, giúp Chính phủ trình Quốc hội ban hành 223 bộ luật, luật; 1.547 nghị định; đặc biệt, Bộ Tư pháp đã trực tiếp chủ trì soạn thảo, tham mưu, trình Chính phủ hoặc giúp Chính phủ trình Quốc hội thông qua 24 bộ luật, luật[9], 77 nghị định[10], trong đó, có nhiều đạo luật quan trọng, đạo luật gốc làm cơ sở để xây dựng, hoàn thiện thể chế, bảo đảm an ninh trật tự, phát triển kinh tế, như Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, năm 2025), Luật Công chứng năm 2024, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025,…

Có thể khẳng định, công tác xây dựng pháp luật của Bộ Tư pháp trong giai đoạn 2015 - 2025 đã góp phần đặc biệt quan trọng vào việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế, pháp luật tương đối đồng bộ, công khai, minh bạch, tạo nền tảng pháp lý để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế,…

Thứ ba, công tác thẩm định đề nghị xây dựng (đề xuất chính sách) dự án, dự thảo VBQPPL luôn được Bộ, ngành Tư pháp chú trọng nâng cao chất lượng, đẩy nhanh tiến độ[11]. Nhiều ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp đã được cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp thu hoàn thiện dự thảo VBQPPL và được cơ quan, cá nhân có thẩm quyền sử dụng để nghiên cứu, xem xét trước khi quyết định ban hành văn bản.

Trong giai đoạn 2015 - 2025, Bộ Tư pháp đã thẩm định, cho ý kiến thẩm định đối với 2.726 hồ sơ đề nghị xây dựng luật (đề xuất chính sách), dự thảo VBQPPL. Riêng từ ngày 01/01/2025 đến ngày 22/5/2025, Bộ Tư pháp đã có ý kiến thẩm định đối với 02 đề nghị xây dựng Nghị quyết của Quốc hội; 121 dự án, dự thảo VBQPPL, trong đó có các luật về tổ chức bộ máy, “chùm” nghị định của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ phục vụ yêu cầu của cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy theo chỉ đạo của Đảng, Nhà nước; nhóm nghị định thực hiện phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền gắn với việc thực hiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương hai cấp[12].

Thứ tư, công tác tổ chức thi hành pháp luật có chuyển biến rõ nét với nhiều điểm sáng, góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật, hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật và chất lượng quản lý nhà nước. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở, trợ giúp pháp lý, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, đăng ký biện pháp bảo đảm, bồi thường nhà nước tạo được nhiều “cú hích” về nhận thức pháp luật trong Nhân dân, xã hội; bảo đảm pháp luật được thực thi trên thực tế, mang lại sự bình đẳng trước pháp luật cho người dân; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người dân khi bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ; bảo đảm công khai, minh bạch về tình trạng pháp lý của tài sản, sự thuận lợi trong xác lập các giao dịch dân sự, kinh doanh thương mại, góp phần nâng cao đoàn kết nội bộ trong cộng đồng dân cư, thúc đẩy phát triển kinh tế và ổn định trật tự xã hội. Đặc biệt, trong công tác này, Bộ, ngành Tư pháp đã quyết liệt đổi mới phương thức, cách thức thực hiện, có nhiều cách làm hay, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung[13]. Ngoài ra, cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin được toàn ngành quan tâm thực hiện xuyên suốt từ năm 2015 đến năm 2025, tạo đột phá lớn trong quản lý, điều hành công việc, đơn giản hóa thủ tục hành chính, thực hành tiết kiệm, đẩy nhanh tiến độ thực hiện công việc, cung ứng dịch vụ công trong toàn ngành nói riêng và cho người dân, doanh nghiệp nói chung, góp phần quan trọng xây dựng “Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ Nhân dân”.

Thứ năm, công tác thi hành án dân sự, thi hành án hành chính, Bộ, ngành Tư pháp đã từng bước xây dựng và phát triển hệ thống cơ quan thi hành án dân sự thống nhất, chuyên nghiệp từ trung ương đến địa phương, với đội ngũ công chức được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu, ngày càng trưởng thành về mọi mặt. Thực hiện chủ trương của Đảng về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, Bộ Tư pháp đã xây dựng Đề án tiếp tục sắp xếp, tinh gọn bộ máy, hệ thống thi hành án dân sự, bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả và được Bộ Chính trị, Ban Bí thư thông qua tại Kết luận số 162-KL/TW ngày 06/6/2025.

Từ năm 2015 đến hết ngày 30/6/2025, hệ thống cơ quan thi hành án dân sự giải quyết hơn 6 triệu 850 nghìn việc, tương ứng số tiền hơn 1 triệu 588 nghìn 888 tỷ đồng; trong đó, vụ việc có điều kiện thi hành trên 6 triệu 118 nghìn 105 việc, tương ứng số tiền trên 791 nghìn 111 tỷ đồng; đã thi hành xong 5 triệu 998 nghìn 788 việc, tương ứng số tiền trên 682 nghìn 867 tỷ đồng.

Đối với công tác thi hành án hành chính: từ ngày 01/10/2016 đến ngày 31/3/2025, cả nước có tổng số 5.155 bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính mà người phải thi hành án là cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước. Kết quả, đã thi hành xong: 3.845 bản án, quyết định; đang thi hành: 1.303 bản án, quyết định; số bản án bị hủy, hoãn, tạm đình chỉ thi hành: 07 bản án, quyết định.

Có thể khẳng định, hệ thống cơ quan thi hành án dân sự đã, đang thực hiện hiệu quả nhiệm vụ tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, phán quyết của Trọng tài thương mại… góp phần quan trọng bảo đảm tính nghiêm minh và hiệu lực của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, lợi ích của Nhà nước, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với thông lệ và chuẩn mực pháp lý quốc tế.

Thứ sáu, về công tác hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, Bộ, ngành Tư pháp đã xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính tư pháp, tổ chức hành nghề luật và phát triển đội ngũ công chức, viên chức, các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp từ trung ương đến địa phương có chất lượng, hoạt động hiệu quả, hỗ trợ, tạo thuận lợi và mang lại sự bình đẳng cho người dân. Đồng thời, công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp được thực hiện tốt, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện các quyền của mình và mang lại công bằng, bình đẳng trước pháp luật; nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Thứ bảy, công tác hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp trong giai đoạn 2015 - 2025 đã được Bộ, ngành Tư pháp phát triển lên một tầm cao mới với nhiều thành tựu quan trọng trên cả bình diện song phương và toàn cầu. Bộ Tư pháp đã ký kết 132 văn kiện hợp tác[14] tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho thiết lập, củng cố, tăng cường, mở rộng và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác tại nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ. Hợp tác đa phương khu vực và toàn cầu được đẩy mạnh theo phương châm chủ động, trách nhiệm, hiệu quả, Bộ Tư pháp đã tham gia vào các tổ chức pháp lý quốc tế toàn cầu như Tổ chức quốc tế về Luật phát triển IDLO. Đồng thời, tiếp tục chủ động vận động, đàm phán, ký kết và quản lý thực hiện hiệu quả nhiều chương trình, dự án, phi dự án hợp tác với đối tác quốc tế nhằm tranh thủ nguồn lực, các hỗ trợ kỹ thuật của quốc tế phục vụ việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của Bộ, ngành Tư pháp và hỗ trợ triển khai nhiệm vụ của một số cơ quan, tổ chức khác trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc hợp tác quốc tế về pháp luật. Đặc biệt, Bộ Tư pháp đã hoàn thành tốt vai trò giúp Chính phủ quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trên phạm vi toàn quốc, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp của các bộ, ngành, địa phương.

Thứ tám, công tác pháp luật quốc tế của Bộ Tư pháp ngày càng đóng vai trò quan trọng và là một bộ phận cấu thành trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam theo hướng tiệm cận hơn với các chuẩn mực pháp lý chung của thế giới, từng bước làm “cầu nối” giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế; thể chế, pháp luật trong lĩnh vực tư pháp và tương trợ tư pháp được xây dựng, vận hành và đang tiếp tục được hiện đại hóa trong bối cảnh hội nhập mới của đất nước thông qua việc đàm phán và thực hiện 18 điều ước quốc tế song phương và 02 điều ước quốc tế đa phương về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự; từng bước khẳng định vai trò trung tâm trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước trong quá trình hội nhập quốc tế, đặc biệt là nhiệm vụ đại diện pháp lý cho Chính phủ trong các tranh chấp đầu tư quốc tế; đóng góp quan trọng vào công tác bảo đảm và bảo vệ quyền con người cũng như thực hiện tốt các nghĩa vụ quốc tế về quyền con người; chủ động tham gia vào việc xây dựng các “luật chơi” pháp lý quốc tế, có tiếng nói được ghi nhận tại các diễn đàn pháp lý quốc tế như tham gia Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế và hoạt động của Ủy ban luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL).

Thứ chín, về công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực và xây dựng ngành, Bộ Tư pháp đã có bước phát triển toàn diện cả về tổ chức bộ máy và chất lượng đội ngũ cán bộ. Ban Cán sự Đảng, Đảng ủy, Lãnh đạo Bộ Tư pháp đặc biệt quan tâm công tác tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; tập trung chỉ đạo sắp xếp, kiện toàn các đơn vị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, chuyên nghiệp, giảm đầu mối trung gian, khắc phục tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ phù hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước về đổi mới hệ thống tổ chức trong hệ thống chính trị.

Trong giai đoạn từ năm 2015 đến tháng 7/2025, Bộ Tư pháp đã chọn, cử gần 20.000 lượt công chức, viên chức tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng ở trong và ngoài nước; Học viện Tư pháp đào tạo được 51.989 lượt học viên và bồi dưỡng được 53.482 lượt người học[15]; Trường Đại học Luật Hà Nội đào tạo và cấp bằng cho 41.073 học viên các loại[16]; các Trường Cao đẳng Luật đào tạo và cấp bằng trung cấp, cao đẳng cho khoảng 5.100 học sinh/sinh viên. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch và sử dụng cán bộ của Bộ Tư pháp tiếp tục được đổi mới theo hướng đúng người, đúng việc, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị, đạo đức công vụ và năng lực chuyên môn, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, xứng đáng với truyền thống vẻ vang của ngành Tư pháp.

Đồng thời, các đơn vị sự nghiệp công lập từng bước được chuyển đổi sang cơ chế tự chủ theo quy định của pháp luật, nâng cao tính chủ động, sáng tạo và hiệu quả hoạt động. Hệ thống tổ chức tư pháp địa phương theo mô hình ba cấp (từ ngày 01/7/2025 thực hiện mô hình hai cấp) tiếp tục được củng cố, hoàn thiện theo hướng tinh gọn, đa nhiệm, thích ứng linh hoạt với yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong kỷ nguyên số và hội nhập quốc tế.

Thứ mười, công tác nghiên cứu khoa học pháp lý ngày càng đóng góp thiết thực cho cả phương diện lý luận và thực tiễn công tác pháp luật, tư pháp. Trong giai đoạn 2015 - 2025, Bộ Tư pháp đã thực hiện thành công 164 nhiệm vụ khoa học[17]. Các nhiệm vụ khoa học của Bộ Tư pháp luôn bám sát thực tiễn của đất nước, Bộ, ngành Tư pháp, đề cao giá trị pháp lý truyền thống của dân tộc; đồng thời, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa pháp lý nhân loại trên nền tảng Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, thúc đẩy tinh thần thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Nhiều kết quả nghiên cứu đã được vận dụng vào văn kiện của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật. Đến nay, hầu hết các lĩnh vực trọng yếu như xây dựng pháp luật, thi hành pháp luật, hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý, xây dựng ngành, đào tạo nguồn nhân lực pháp luật... đều được củng cố bằng những kết quả nghiên cứu có giá trị cả về lý luận và thực tiễn.

Mười một, công tác chuyển đổi số tiếp tục được Bộ, ngành Tư pháp xác định là nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp chiến lược nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị trong bối cảnh chuyển đổi số toàn diện. Cùng với việc duy trì, nâng cao chất lượng các nhiệm vụ thường xuyên, Bộ Tư pháp và hệ thống cơ quan tư pháp địa phương đã tích cực huy động nguồn lực, đẩy mạnh triển khai thực hiện Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030” (Đề án 06); đồng thời, tập trung thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Bộ Tư pháp đã tập trung xây dựng, hoàn thiện, khai thác hiệu quả các cơ sở dữ liệu của Bộ, ngành Tư pháp quản lý như cơ sở dữ liệu về pháp luật, đăng ký biện pháp bảo đảm, hộ tịch bảo đảm đồng bộ với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; chủ trì xây dựng, hoàn thiện và vận hành Cổng Pháp luật quốc gia, Hệ thống tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị về văn bản quy phạm pháp luật, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu khai thác thông tin, sử dụng dịch vụ pháp lý công của người dân, doanh nghiệp. Đồng thời, Bộ Tư pháp đang đẩy nhanh tiến độ xây dựng, kết nối các cơ sở dữ liệu chuyên ngành như: xử lý vi phạm hành chính, công chứng, thi hành án dân sự, trợ giúp pháp lý... với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, phấn đấu hoàn thành tích hợp trong năm 2025, bảo đảm đồng bộ, liên thông, góp phần thúc đẩy quá trình xây dựng nền tư pháp điện tử và Chính phủ số.

Với những kết quả đã đạt được, có thể khẳng định, giai đoạn 2015 - 2025, Bộ, ngành Tư pháp đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, chủ động, linh hoạt xử lý nhiều vấn đề mới, phức tạp phát sinh. Nhiều nhiệm vụ lần đầu triển khai, chưa có tiền lệ đã được thực hiện quyết liệt, phù hợp với thực tiễn. Với tư duy đổi mới, cách làm sáng tạo, Bộ, ngành Tư pháp đã có những bước đột phá trong thực hiện nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu hội nhập, phát triển, góp phần quan trọng vào xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

3. Mục tiêu, yêu cầu đặt ra đối với Bộ, ngành Tư pháp trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam

Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển mình quan trọng, hướng tới mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Khát vọng đó được thể hiện rõ trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, các Nghị quyết Đại hội khóa XIII của Đảng cùng nhiều chiến lược, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực. Bối cảnh và khát vọng phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới đặt ra mục tiêu, yêu cầu cấp thiết đối với Bộ, ngành Tư pháp.

Nghị quyết số 66-NQ/TW xác định, đến năm 2030, Việt Nam có hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, khả thi với cơ chế tổ chức thực hiện nghiêm minh, nhất quán, bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan sau sắp xếp tổ chức bộ máy, tháo gỡ “điểm nghẽn” do quy định pháp luật, mở đường cho kiến tạo phát triển, huy động mọi người dân và doanh nghiệp tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội; đến năm 2045, Việt Nam có hệ thống pháp luật chất lượng cao, hiện đại, tiệm cận chuẩn mực, thông lệ quốc tế tiên tiến và phù hợp với thực tiễn đất nước, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật, ý thức thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội.

Trong kỷ nguyên mới, thể chế, pháp luật không chỉ là điều kiện bảo đảm cho hiện thực hóa các mục tiêu chiến lược, mà cần phải trở thành lợi thế cạnh tranh quốc gia - nơi pháp luật không chỉ “bảo vệ” mà còn “dẫn dắt” sự phát triển. Trước yêu cầu đó, Bộ, ngành Tư pháp cần tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt, dẫn dắt, định hướng trong công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật, đóng góp thiết thực vào quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

Bên cạnh mục tiêu, yêu cầu xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp luật, nâng cao chất lượng, hiệu quả thi hành pháp luật, trong kỷ nguyên mới, Bộ, ngành Tư pháp cần hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng, Quốc hội, Chính phủ giao; tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước, hoàn thành xuất sắc các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong các lĩnh vực công tác, xác định mục tiêu lấy người dân, doanh nghiệp làm chủ thể, đối tượng phục vụ; cắt giảm, đơn giản hóa mọi thủ tục hành chính; giúp người dân, doanh nghiệp tiếp cận pháp luật một cách đơn giản, thuận lợi, giảm thiểu tối đa chi phí tuân thủ pháp luật, mang lại sự bình đẳng trong tiếp cận pháp luật, nhất là các đối tượng yếu thế. Qua đó, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tạo dư địa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế “02 con số”.

Đối với công tác hợp tác quốc tế về pháp luật, tư pháp và pháp luật quốc tế, Bộ, ngành Tư pháp cần đẩy mạnh và mở rộng hợp tác quốc tế trên bình diện toàn cầu, khu vực và song phương; đàm phán, ký kết, thực hiện hiệu quả các thỏa thuận về lĩnh vực pháp luật và tư pháp; tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế đa phương, khẳng định vai trò thành viên tích cực trong các tổ chức quốc tế khu vực cũng như toàn cầu mà Việt Nam đã tham gia; chú trọng hiệu quả công tác hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp; xây dựng cơ chế thúc đẩy sự tham gia và hiện diện của chuyên gia pháp luật Việt Nam trong các thiết chế pháp luật quốc tế. Đồng thời, cần hoàn thiện pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế; giải quyết hiệu quả các xung đột về thẩm quyền, pháp luật giữa Việt Nam và các quốc gia khác; nâng cao trách nhiệm phòng ngừa, giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế; xử lý hiệu quả các vấn đề pháp lý phát sinh trong quá trình hội nhập quốc tế, kịp thời bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước Việt Nam; đưa Bộ Tư pháp trở thành trung tâm về tư pháp quốc tế của Việt Nam.

4. Một số giải pháp thực hiện hiệu quả nhiệm vụ trọng tâm

Để đạt được các mục tiêu, thực hiện hiệu quả nhiệm vụ trọng tâm đã được xác định, đóng góp cho công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong kỷ nguyên mới, Bộ, ngành Tư pháp cần đoàn kết, phát huy truyền thống kết quả đã đạt được, nỗ lực thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:

Thứ nhất, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng trong công tác xây dựng, thi hành pháp luật và trong các lĩnh vực công tác của Bộ, ngành Tư pháp. Quán triệt, nâng cao nhận thức và thể chế hóa đầy đủ, kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIV, các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương; tham mưu, thực hiện triển khai hiệu quả Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Thứ hai, nâng cao chất lượng, tiến độ thẩm định, góp ý dự án, dự thảo VBQPPL; tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm và kiểm soát chặt quy trình, bảo đảm phòng, chống lợi ích nhóm trong xây dựng, ban hành VBQPPL theo Quy định số 178-QĐ/TW ngày 27/6/2024 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong tiếp nhận, xử lý phản ánh, tháo gỡ vướng mắc pháp luật; nâng cao hiệu quả thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025; triển khai các dự án luật trọng điểm, nhất là những VBQPPL tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư, kinh doanh, góp phần hoàn thiện thể chế, thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh và bền vững đất nước.

Thứ ba, tiếp tục đổi mới, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, đề cao trách nhiệm người đứng đầu; đơn giản hóa thủ tục hành chính và tăng cường công tác cải cách hành chính; thực hiện nghiêm các chương trình, kế hoạch công tác đã đề ra, nhất là những nhiệm vụ liên quan trực tiếp đến phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ người dân, doanh nghiệp.

Thứ tư, tiếp tục nghiên cứu, kiện toàn tổ chức bộ máy Bộ Tư pháp theo hướng tinh, gọn, mạnh, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác; chủ động sắp xếp, bố trí đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phù hợp với mô hình tổ chức mới, phát huy tối đa năng lực, sở trường chuyên môn của từng cá nhân; đồng thời, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực toàn ngành. Bên cạnh đó, tăng cường thu hút nhân tài và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, gắn kết chặt chẽ với nghiên cứu khoa học pháp lý, đặc biệt, tập trung vào các vấn đề mới, phức tạp nhằm phục vụ hiệu quả cho hoạt động công tác của Bộ, ngành Tư pháp và sự nghiệp phát triển đất nước.

Thứ năm, chủ động hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ; kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, nhất là các vấn đề phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp; linh hoạt điều chỉnh các chương trình, kế hoạch công tác phù hợp với điều kiện thực tế, vừa bảo đảm tính khả thi, vừa duy trì thực hiện hiệu quả và đầy đủ các nhiệm vụ được giao, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác toàn ngành.

Thứ sáu, tập trung đầu tư nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng để đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ số, chuyển đổi số trong toàn ngành Tư pháp, nhất là ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số trong chỉ đạo, điều hành triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch công tác; tiếp tục xây dựng, nâng cấp, khai thác hiệu quả các cơ sở dữ liệu của Bộ, ngành Tư pháp quản lý như Cổng Pháp luật quốc gia, các cơ sở dữ liệu chuyên ngành. Đồng thời, kết nối, chia sẻ dữ liệu với Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia, cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình cho người dân, doanh nghiệp; nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật và truyền thông, nhất là các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp; kịp thời chia sẻ, nhân rộng cách làm hay, hiệu quả, sáng tạo trong triển khai thực hiện nhiệm vụ được giao phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước.

Thứ bảy, tăng cường công tác phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan và cấp ủy, chính quyền các cấp trong chỉ đạo, điều hành công tác tư pháp từ trung ương đến địa phương; kịp thời báo cáo, tham mưu các giải pháp đổi mới, sáng tạo, hiệu quả, kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xin ý kiến chỉ đạo, tháo gỡ những khó khăn, bất cập trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của Bộ, ngành Tư pháp.

Thứ tám, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thường xuyên và chủ động từ đầu để phòng ngừa các sai phạm, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các sai phạm (nếu có), bảo đảm tính minh bạch, kỷ cương và trách nhiệm trong hoạt động công vụ. Đồng thời, chú trọng động viên, khen thưởng kịp thời các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc, qua đó, tạo động lực thúc đẩy thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng môi trường làm việc chuyên nghiệp, lành mạnh và minh bạch.

Thứ chín, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp, tăng cường trao đổi, chia sẻ, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế phù hợp với thực tiễn Việt Nam về xây dựng, tổ chức thi hành pháp luật và các lĩnh vực quản lý nhà nước mà Bộ, ngành Tư pháp được giao.

Kết luận

Với bề dày truyền thống 80 năm xây dựng và trưởng thành, công tác tư pháp nói chung, Bộ, ngành Tư pháp nói riêng đã không ngừng phát triển, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn cách mạng, đóng góp tích cực vào thắng lợi chung của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự phối hợp chặt chẽ của cấp ủy, chính quyền các cấp, sự ủng hộ, tin cậy của Nhân dân, cùng sự nỗ lực, tích cực triển khai những nhiệm vụ được giao với tinh thần trách nhiệm cao nhất, chắc chắn, Bộ, ngành Tư pháp sẽ có thêm nhiều đóng góp quan trọng đối với công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, góp phần tích cực vào tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong kỷ nguyên mới, vì hạnh phúc của Nhân dân và tương lai tươi sáng của dân tộc[18]./.

TS. Nguyễn Hải Ninh

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy, Bộ trưởng Bộ Tư pháp

[1]. Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần thứ IV năm 1948.

[2]. Như Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời về tổ chức các đoàn thể luật sư; Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 của Chủ tịch nước về tổ chức các Tòa án và các ngạch thẩm phán.

[3]. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp (năm 2015), Ngành Tư pháp Việt Nam 70 năm xây dựng và phát triển, Nxb. Tư pháp, tr. 17.

[4]. https://mattran.org.vn/chuong-trinh-phoi-hop/thanh-lap-chinh-phu-cach-mang-lam-thoi-cong-hoa-mien-nam-viet-nam-su-sang-tao-mang-tinh-chien-luoc-cua-dang-trong-cuoc-khang-chien-chong-my-cuu-nuoc-51418.html, truy cập ngày 20/7/2025.

[5]. Kết luận số 19-KL/TW ngày 14/10/2021 của Bộ Chính trị về định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV; Kế hoạch số 81/KH-UBTVQH15 ngày 05/11/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội triển khai thực hiện Kết luận số 19-KL/TW về Đề án định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV; Quyết định số 178-QĐ/TW ngày 27/6/2024 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật.

[6]. Cùng với Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/02/2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân.

[7]. Kế hoạch số 12-KH/ĐU ngày 30/5/2025 của Đảng ủy Bộ Tư pháp.

[8]. Nghị quyết số 197/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật.

[9]. Riêng Bộ Tư pháp đã chủ trì xây dựng, trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư, Luật Nhà ở, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật Doanh nghiệp, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thi hành án dân sự (Luật số 03/2022/QH15); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản (Luật số 37/2024/QH15); Luật Thủ đô (Luật số 39/2024/QH15); Luật Công chứng (Luật số 46/2024/QH15); Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Luật số 64/2025/QH15); Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017; Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (năm 2020); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp (năm 2020)…

[10]. Số liệu tính từ ngày 01/01/2015 đến ngày 01/7/2025.

[11]. Trong giai đoạn 2021 - 2024, Bộ Tư pháp đã thẩm định 175 đề nghị xây dựng văn bản và 1.002 dự án, dự thảo VBQPPL.

[12]. Báo cáo số 270/BC-BTP ngày 04/6/2025 về tổng kết công tác nhiệm kỳ 2021 - 2026 của Bộ Tư pháp.

[13]. Như các cơ sở dữ liệu về: phổ biến, giáo dục pháp luật; trợ giúp pháp lý; phục vụ hoạt động công chứng; đấu giá tài sản,…

[14]. Bao gồm cả thỏa thuận quốc tế, chương trình, kế hoạch hợp tác triển khai thỏa thuận quốc tế đã ký, thỏa thuận triển khai dự án ODA.

[15]. Trong đó, bồi dưỡng theo kế hoạch của Bộ Tư pháp là 14.454 và bồi dưỡng theo nhu cầu xã hội là 39.028 lượt người học.

[16]. Gồm: 250 tiến sĩ, 3.306 thạc sĩ, 21.896 cử nhân hệ chính quy; 6.644 cử nhân hệ vừa học, vừa làm; 4.309 cử nhân hệ vừa học, vừa làm văn bằng 2; 4.668 cử nhân hệ chính quy văn bằng 2.

[17]. Gồm: 05 hội thảo khoa học cấp quốc gia, 04 đề tài nghiên cứu cấp quốc gia, 141 đề tài nghiên cứu cấp bộ, 06 đề án nghiên cứu cấp bộ, 08 hội thảo khoa học cấp bộ.

[18]. TS. Lê Thành Long (2023), “Ngành Tư pháp triển khai thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới”, Số chuyên đề “Ngành Tư pháp triển khai thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Hà Nội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.

2. Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

3. Thông báo số 108-TB/VPTW ngày 18/11/2024 của Văn phòng Trung ương Đảng về Kết luận của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm tại buổi làm việc với Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp.

4. GS.TS. Tô Lâm, “Phát huy tính Đảng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, https://baochinhphu.vn/phat-huy-tinh-dang-trong-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-102241019142658209.htm, truy cập ngày 15/6/2024.

5. TS. Lê Thành Long (2023), “Ngành Tư pháp triển khai thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới”, Số chuyên đề “Ngành Tư pháp triển khai thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Hà Nội.

6. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp (2015), “Ngành Tư pháp Việt Nam 70 năm xây dựng và phát triển”, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

7. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp (2020), “Một số thành tựu công tác tư pháp giai đoạn 2015 - 2020”, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

8. Bộ Tư pháp (2025), Báo cáo số 270/BC-BTP ngày 04/6/2025 về tổng kết công tác nhiệm kỳ 2021 - 2026 của Bộ Tư pháp.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật ấn phẩm đặc biệt “Ngành Tư pháp - Tự hào truyền thống, vững bước tương lai” xuất bản năm 2025)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Xây dựng và hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao năng lực, hiệu quả thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Xây dựng và hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao năng lực, hiệu quả thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Trong bối cảnh mới, hệ thống pháp luật Việt Nam cần phải đáp ứng các yêu cầu cốt lõi, mang tính chiến lược nhằm phát huy tối đa vai trò của pháp luật trong sự phát triển của đất nước.
Hoàn thiện pháp luật về hình sự, hành chính, tổ chức bộ máy đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Hoàn thiện pháp luật về hình sự, hành chính, tổ chức bộ máy đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Sự phát triển mạnh mẽ của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang đặt ra những yêu cầu mới, mang tính nền tảng và chiến lược đối với công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để tạo động lực cho sự phát triển nhanh, mạnh, bền vững của đất nước, làm tiền đề vững chắc để đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển bứt phá, giàu mạnh, hùng cường dưới sự lãnh đạo của Đảng thì hoàn thiện pháp luật nói chung, trong đó có pháp luật hình sự, hành chính và tổ chức bộ máy nói riêng là yêu cầu tất yếu.
Sửa đổi Luật Viên chức hướng tới xây dựng đội ngũ viên chức chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, phục vụ Nhân dân

Sửa đổi Luật Viên chức hướng tới xây dựng đội ngũ viên chức chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, phục vụ Nhân dân

Dự thảo Luật Viên chức (sửa đổi) được Bộ Nội vụ xây dựng có nhiều điểm mới quan trọng hướng tới mô hình quản trị chuyên nghiệp, hiện đại trong đơn vị sự nghiệp; xây dựng đội ngũ viên chức chuyên nghiệp, có trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp, năng động, phục vụ tốt cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu của người dân, doanh nghiệp.
Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết "Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới" trong ấn phẩm 200 trang "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong giai đoạn mới" xuất bản tháng 7/2025.
Hoàn thiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong thi hành án dân sự

Hoàn thiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong thi hành án dân sự

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết "Hoàn thiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong thi hành án dân sự" trong ấn phẩm 200 trang “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong giai đoạn mới” xuất bản tháng 7/2025.
Công tác thi hành án hành chính - Thực trạng và đề xuất nâng cao hiệu quả trong giai đoạn mới

Công tác thi hành án hành chính - Thực trạng và đề xuất nâng cao hiệu quả trong giai đoạn mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết "Công tác thi hành án hành chính - Thực trạng và đề xuất nâng cao hiệu quả trong giai đoạn mới" trong ấn phẩm 200 trang “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong giai đoạn mới” xuất bản tháng 7/2025.
Cải cách thủ tục hành chính trong công tác thi hành án dân sự

Cải cách thủ tục hành chính trong công tác thi hành án dân sự

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết "Cải cách thủ tục hành chính trong công tác thi hành án dân sự" trong ấn phẩm 200 trang “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong giai đoạn mới” xuất bản tháng 7/2025.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế

Hoàn thiện quy định pháp luật về thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết "Hoàn thiện quy định pháp luật về thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế" trong ấn phẩm 200 trang “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong giai đoạn mới” xuất bản tháng 7/2025.
Thực tiễn thi hành các quyết định giải quyết phá sản - Vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện pháp luật phá sản

Thực tiễn thi hành các quyết định giải quyết phá sản - Vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện pháp luật phá sản

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết "Thực tiễn thi hành các quyết định giải quyết phá sản - Vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện pháp luật phá sản" trong ấn phẩm 200 trang “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong giai đoạn mới” xuất bản tháng 7/2025.
Thực tiễn và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi hành án tín dụng ngân hàng trong giai đoạn hiện nay

Thực tiễn và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi hành án tín dụng ngân hàng trong giai đoạn hiện nay

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết "Thực tiễn và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi hành án tín dụng ngân hàng trong giai đoạn hiện nay" trong ấn phẩm 200 trang “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong giai đoạn mới” xuất bản tháng 7/2025.
Kết quả Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) năm 2025”

Kết quả Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) năm 2025”

Thực hiện Nghị quyết số 75/2025/UBTVQH15 ngày 26/3/2025 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XV về việc điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2025, Bộ Tư pháp đang xây dựng dự thảo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi)[1] (dự thảo Luật) để trình Quốc hội cho ý kiến và thông qua tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV (tháng 10/2025) theo quy trình một kỳ họp. Nhằm tạo diễn đàn khoa học, ghi nhận được nhiều ý kiến từ các cơ quan quản lý, nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn… góp phần hoàn thiện dự thảo Luật bảo đảm đồng bộ, thống nhất, minh bạch, có tính khả thi cao, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) chủ trì và phối hợp với Cục Quản lý thi hành án dân sự tổ chức thành công Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) năm 2025”[2]. [1] . Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 được Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ 4 và đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 64/2014/QH13 và Luật số 03/2022/QH15. [2] . Hội thảo góp ý vào bản Dự thảo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) đã được tiếp thu, chỉnh sửa sau khi trình Chính phủ (Dự thảo 04).
Xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự thông qua Thừa phát lại theo dự thảo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi)

Xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự thông qua Thừa phát lại theo dự thảo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi)

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết "Xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự thông qua Thừa phát lại theo dự thảo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi)" trong ấn phẩm 200 trang “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong giai đoạn mới” xuất bản tháng 7/2025.
Giải pháp hạn chế phát sinh vụ việc bồi thường nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự

Giải pháp hạn chế phát sinh vụ việc bồi thường nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết "Giải pháp hạn chế phát sinh vụ việc bồi thường nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự" trong ấn phẩm 200 trang “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong giai đoạn mới” xuất bản tháng 7/2025.
Thực hiện chỉ tiêu, nhiệm vụ thi hành án dân sự, theo dõi thi hành án hành chính trong tình hình mới

Thực hiện chỉ tiêu, nhiệm vụ thi hành án dân sự, theo dõi thi hành án hành chính trong tình hình mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết "Thực hiện chỉ tiêu, nhiệm vụ thi hành án dân sự, theo dõi thi hành án hành chính trong tình hình mới" trong ấn phẩm 200 trang “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong giai đoạn mới” xuất bản tháng 7/2025.
Thực trạng công tác tiếp nhận, quản lý và xử lý vật chứng trong thi hành án dân sự và một số kiến nghị hoàn thiện

Thực trạng công tác tiếp nhận, quản lý và xử lý vật chứng trong thi hành án dân sự và một số kiến nghị hoàn thiện

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết "Thực trạng công tác tiếp nhận, quản lý và xử lý vật chứng trong thi hành án dân sự và một số kiến nghị hoàn thiện" trong ấn phẩm 200 trang “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong giai đoạn mới” xuất bản tháng 7/2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi