1. Khái quát quyền làm việc trong Hiến pháp Việt Nam
Trải qua các giai đoạn lịch sử, Hiến pháp Việt Nam qua từng thời kỳ đã ghi nhận “quyền làm việc” là một trong những quyền cơ bản của công dân. Mặc dù không rõ ràng ghi nhận quyền lao động của công dân nhưng Hiến pháp năm 1946 đã đề cập đến việc bảo vệ quyền lợi của những người có nền tảng trí thức. Hiến pháp năm 1959 đã quy định chi tiết hơn về quyền lao động của công dân, bao gồm quyền làm việc, nghỉ ngơi và được hỗ trợ về vật chất khi già yếu hoặc bị ốm đau. Hiến pháp năm 1980 đã đặt trách nhiệm vào Nhà nước để tạo ra cơ hội làm việc, cải thiện điều kiện làm việc và bảo đảm an toàn cho người lao động, đồng thời cũng mở rộng các chế độ bảo hiểm xã hội để bảo vệ quyền lợi của người lao động. Hiến pháp năm 1992 tiếp tục kế thừa và cụ thể hóa các quy định về quyền làm việc, bao gồm trách nhiệm của cả Nhà nước và xã hội trong việc tạo ra việc làm, ban hành chính sách bảo hộ lao động và khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác cho người lao động.
Hiến pháp năm 2013 đã có một bước tiến mới trong quy định về quyền làm việc của công dân. Cụ thể, Điều 35 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc; 2. Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi; 3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu”. Quy định này cho thấy, trên cơ sở kế thừa và phát triển từ các bản Hiến pháp trước, Hiến pháp năm 2013 đã điều chỉnh và bổ sung một cách hợp lý, đồng thời phù hợp với pháp luật quốc tế về quyền lao động của con người.
Theo Hiến pháp năm 2013, quyền làm việc của công dân bao gồm các nội dung sau:
Thứ nhất, quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc:
Lao động để tồn tại và phát triển là một quyền cơ bản của con người đã được thừa nhận và bảo vệ qua nhiều thế hệ. Từ khi nhân loại bắt đầu phát triển, nhu cầu làm việc để duy trì cuộc sống và tiến bộ đã trở thành một phần không thể thiếu của xã hội. Mỗi cá nhân sinh ra với những đặc điểm riêng về thể chất, tinh thần và năng lực. Vì vậy, quyền được lựa chọn nghề nghiệp và công việc phù hợp với khả năng của mỗi người là rất quan trọng, điều này không chỉ giúp họ phát huy tối đa tiềm năng của mình mà còn đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của xã hội. Bên cạnh đó, để thực sự khai thác và phát huy hết khả năng của mỗi cá nhân, môi trường làm việc cũng đóng vai trò then chốt. Một môi trường làm việc phù hợp không chỉ giúp họ phát triển kỹ năng mà còn nâng cao chất lượng cuộc sống và sự hài lòng trong công việc. Do đó, việc có quyền lựa chọn nơi làm việc và môi trường làm việc phù hợp với bản thân là điều cần thiết để mỗi người có thể cống hiến và đạt được sự thăng tiến trong sự nghiệp, đồng thời góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội. Trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường, Hiến pháp năm 2013 đã điều chỉnh vai trò và trách nhiệm của Nhà nước và xã hội một cách hợp lý, phù hợp hơn. Theo quy định này, Nhà nước có nhiệm vụ tạo ra hành lang pháp lý, khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trong xã hội tạo việc làm cho người lao động. Chính sách nhất quán của Nhà nước là xã hội hóa việc làm dựa trên các quy luật của thị trường, đồng thời bảo đảm sự bình đẳng về quyền và lợi ích hợp pháp cho cả người lao động lẫn người sử dụng lao động. Điều này không chỉ giúp thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động mà còn khuyến khích vai trò tích cực của người lao động trong nền kinh tế.
Thứ hai, quyền được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi:
Quyền làm việc đi đôi với quyền được bảo đảm các điều kiện làm việc an toàn và sự công bằng giữa người lao động, thể hiện quyền bình đẳng trước pháp luật. Người lao động làm việc để nhận tiền lương nhằm nuôi sống bản thân và gia đình, do đó, họ phải được hưởng lương xứng đáng và có thời gian nghỉ ngơi để tái tạo sức lao động. Hiến pháp năm 2013 đã sử dụng khái niệm “người làm công ăn lương”, bao gồm cả người lao động trong khu vực chính thức và phi chính thức, khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân. Dưới góc độ quyền lợi, quy định này khẳng định nghĩa vụ của người sử dụng lao động trong việc bảo đảm người lao động được trả lương đầy đủ. Đồng thời, Nhà nước cần thực hiện các chính sách nhằm bảo đảm các chủ thể sử dụng lao động thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ của họ đối với người lao động. Điều này không chỉ giúp bảo vệ quyền lợi của người lao động mà còn góp phần tạo nên một môi trường làm việc công bằng và bền vững.
Thứ ba, các biện pháp bảo vệ quyền về việc làm:
Hiến pháp năm 2013 không chỉ ghi nhận quyền làm việc và quyền được bảo đảm các điều kiện làm việc, mà còn nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động và sử dụng lao động dưới độ tuổi tối thiểu. Quy định mang tính nguyên tắc này của Hiến pháp tạo nền tảng cho việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể nhằm bảo đảm quyền làm việc của công dân. Những quy định này góp phần bảo vệ quyền lợi của người lao động, đồng thời thúc đẩy môi trường làm việc an toàn, công bằng và bền vững. Chính sự rõ ràng và cụ thể trong các biện pháp pháp lý này sẽ bảo đảm rằng các quyền của người lao động được tôn trọng và thực thi, góp phần vào sự phát triển toàn diện của xã hội.
Ngoài ra, Điều 57 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động. Nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định”. Như vậy, Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia vào việc tạo việc làm và tự tạo việc làm có thu nhập, nhằm góp phần phát triển kinh tế, xã hội và thị trường lao động. Đồng thời, Nhà nước cũng ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho người lao động, bao gồm hỗ trợ tạo việc làm, phát triển thị trường lao động và bảo hiểm thất nghiệp. Những chính sách này không chỉ giúp người lao động tìm được việc làm phù hợp mà còn bảo đảm an sinh xã hội, hỗ trợ họ trong những giai đoạn khó khăn khi mất việc làm. Việc khuyến khích và hỗ trợ tạo việc làm giúp nâng cao năng lực sản xuất, tăng cường sự phát triển bền vững của nền kinh tế, đồng thời giảm tỷ lệ thất nghiệp và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Nhà nước cũng bảo đảm các chính sách này được thực thi hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động và các doanh nghiệp, góp phần xây dựng thị trường lao động lành mạnh và cạnh tranh.
2. Thực trạng bảo đảm quyền làm việc sau 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013
2.1. Kết quả đạt được
Kể từ khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành đến nay, việc thực hiện các quy định về quyền làm việc đã mang lại nhiều kết quả đáng khích lệ và đáng ghi nhận. Nhà nước đã ban hành và triển khai nhiều chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm quyền lao động của công dân, tạo hành lang pháp lý vững chắc, khuyến khích sự tham gia của các tổ chức, cá nhân vào việc tạo việc làm và tự tạo việc làm có thu nhập. Các biện pháp hỗ trợ để bảo đảm thực hiện trên thực tiễn đã được áp dụng rộng rãi, từ việc hỗ trợ tạo việc làm, phát triển thị trường lao động đến bảo hiểm thất nghiệp, giúp người lao động vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống và phát triển sự nghiệp. Những nỗ lực này đã đóng góp tích cực vào việc xây dựng một môi trường lao động công bằng, an toàn và hiệu quả, nâng cao chất lượng cuộc sống của người lao động và thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Một số kết quả đạt được như sau:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật về quyền làm việc đã được ban hành, sửa đổi và bổ sung để phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng về việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thay đổi này cũng nhằm bảo đảm các quy định pháp luật liên quan đến lao động phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế do Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đề ra và phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Sau khi Hiến pháp năm 2013 được thông qua, Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản luật nhằm cụ thể hóa các quy định về quyền làm việc được ghi nhận trong Hiến pháp như Luật Việc làm năm 2013, Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 và năm 2024, Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2014 và Bộ luật Lao động năm 2019. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã ban hành một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý đầy đủ, thống nhất, đồng bộ và minh bạch cho các tổ chức, doanh nghiệp hoạt động như Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 09/7/2015 của Chính phủ quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và quỹ quốc gia về việc làm, Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 14/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ về đảm bảo việc làm bền vững, nâng cao mức sống, cải thiện điều kiện làm việc của công nhân lao động, Nghị quyết số 06/NQ-CP ngày 10/01/2023 của Chính phủ về phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập nhằm phục hồi kinh tế - xã hội... Những văn bản này không chỉ là điều kiện thuận lợi để tạo công ăn, việc làm cho người lao động, mà còn quy định các biện pháp giải quyết tranh chấp về lao động, cũng như các biện pháp chế tài về hành chính và hình sự đối với những hành vi vi phạm quyền làm việc, hơn nữa đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm và thúc đẩy quyền về việc làm của công dân trên thực tế. Điều này không chỉ giúp cải thiện điều kiện lao động mà còn bảo đảm một môi trường làm việc công bằng và an toàn cho tất cả người lao động.
Thứ hai, trên tinh thần Hiến pháp năm 2013 về quyền làm việc và nhằm sử dụng nguồn lao động một cách hiệu quả, đóng góp tích cực vào việc hình thành thể chế kinh tế thị trường, Việt Nam đã ban hành một loạt các chính sách về việc làm và phát triển thị trường lao động, tận dụng lợi thế để phát triển và tiến bộ từng bước với thế giới và khu vực. Trong đó, bên cạnh những chính sách vĩ mô như: Chính sách phát triển kinh tế - xã hội nhằm tạo việc làm cho người lao động, xác định mục tiêu giải quyết việc làm trong chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; bố trí nguồn lực để thực hiện chính sách về việc làm; khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia tạo việc làm và tự tạo việc làm có thu nhập từ mức lương tối thiểu trở lên nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội, phát triển thị trường lao động; hỗ trợ tạo việc làm, phát triển thị trường lao động và bảo hiểm thất nghiệp; đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia gắn với việc nâng cao trình độ kỹ năng nghề, còn có các chính sách cụ thể khác hỗ trợ việc làm đối với người lao động như chính sách tín dụng ưu đãi tạo việc làm, chính sách hỗ trợ chuyển dịch việc làm cho người lao động ở khu vực nông thôn, chính sách việc làm công, chính sách hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên, chính sách hỗ trợ phát triển thị trường lao động.
Các chính sách nêu trên được cụ thể hóa bằng các hoạt động như: Chương trình quốc gia về giải quyết việc làm; thành lập quỹ quốc gia tạo việc làm; thành lập các ngân hàng người nghèo; giao quyền sử dụng ruộng đất để khuyến khích trồng rừng, chương trình hỗ trợ đánh bắt xa bờ; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh để tạo việc làm cho người lao động… Cùng với đó là các biện pháp hỗ trợ việc làm đối với người lao động, bao gồm: Thông tin thị trường lao động; đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia; tổ chức hoạt động dịch vụ việc làm; hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động; bảo hiểm thất nghiệp; trợ cấp thất nghiệp; hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm, học nghề.
Thứ ba, thị trường lao động tiếp tục phát triển trên cơ sở các yếu tố bền vững hơn, như nguồn cung lao động dồi dào, chất lượng lao động được cải thiện và tăng dần để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Hệ thống dịch vụ kết nối đa dạng đã giúp tăng số lượng việc làm và cải thiện chất lượng việc làm, đặc biệt là về mặt ổn định và tăng thu nhập. Các tiêu chuẩn về tuổi làm việc, giờ làm thêm và tiền lương tối thiểu đang được quan tâm và quy định rõ ràng hơn. Cơ chế hỗ trợ quan hệ lao động như đối thoại, thương lượng và hòa giải được tăng cường, đồng thời, hoạt động của các tổ chức như Ủy ban Quan hệ lao động và Hội đồng Tiền lương quốc gia đã đạt được những kết quả tích cực ban đầu. Doanh nghiệp cũng đang tập trung vào việc cải thiện điều kiện lao động và bảo đảm môi trường làm việc an toàn.
Tính đến hết tháng 6/2023, cả nước có 1.892 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, gồm 401 trường cao đẳng, 433 trường trung cấp và 1.058 trung tâm giáo dục nghề nghiệp và trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên. Về tuyển sinh, đào tạo, giai đoạn 2016 - 2022 đã có 15.252.722 người được tiếp cận giáo dục nghề nghiệp, trong đó, trình độ cao đẳng và trung cấp là 3.241.989 người, sơ cấp và các chương trình đào tạo nghề khác là 12.010.733 người. Các kênh giao dịch việc làm trên thị trường lao động ngày càng đa dạng, gồm 83 trung tâm dịch vụ việc làm (63 trung tâm dịch vụ việc làm do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập và 20 trung tâm thuộc ngành, tổ chức chính trị - xã hội) và trên 500 doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm.
Thứ tư, các chính sách an sinh xã hội, trong đó trọng tâm là các chính sách bảo hiểm như: Bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm hưu trí bổ sung, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế đều được quy định khá chi tiết theo hướng mở rộng đối tượng tham gia, bảo đảm tính bền vững của chính sách, từng bước thực hiện nguyên tắc đóng - hưởng, cải cách, đổi mới, đơn giản hóa thủ tục hành chính, áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý, nâng cao tính chuyên nghiệp trong cung cấp dịch vụ cho người tham gia.
Hệ thống Trung tâm dịch vụ việc làm và các Trung tâm hướng nghiệp, dạy nghề và giới thiệu việc làm cung cấp thông tin thị trường lao động; đào tạo kỹ năng cho người lao động; thực hiện các chương trình, dự án việc làm và tổ chức thực hiện tốt chính sách bảo hiểm thất nghiệp. Từ năm 2021 đến hết tháng 6/2023, hệ thống Trung tâm dịch vụ việc làm đã tư vấn, giới thiệu việc làm cho trên 7,3 triệu lượt người; trong đó, số có việc làm là trên 2,3 triệu lượt người; 52.320 người được hỗ trợ học nghề; hơn 2,3 triệu người hưởng trợ cấp thất nghiệp, chiếm hơn 96% số người nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp, mức hưởng trợ cấp thất nghiệp bình quân năm 2022 là 3.334.832 đồng/người/tháng; kết nối 63 website của các Trung tâm dịch vụ việc làm tại Cổng thông tin điện tử việc làm Việt Nam với hơn 220 triệu lượt truy cập.
Thứ năm, công tác quản lý nhà nước về chế độ và chính sách lao động, đặc biệt là thông qua việc tuyên truyền, phổ biến các chính sách, pháp luật và kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện ngày càng được tăng cường. Chính vì vậy, ý thức về việc tuân thủ chính sách, pháp luật của cả người sử dụng lao động và người lao động đang được nâng cao. Nhiều doanh nghiệp đã nhận thức được giá trị quan trọng của người lao động và đã xây dựng các chính sách riêng trong doanh nghiệp để thể hiện sự tôn trọng và quan tâm đến người lao động như tôn trọng quá trình trao đổi và thương lượng, thúc đẩy thực hiện chính sách và thiết lập các quy định dân chủ tại nơi làm việc. Những nỗ lực này nhằm tạo ra một môi trường làm việc tích cực và hướng tới việc phát triển văn hóa doanh nghiệp chăm sóc và hỗ trợ người lao động.
2.2. Khó khăn, thách thức
Bên cạnh những kết quả đạt được trong việc bảo đảm và thúc đẩy quyền làm việc theo Hiến pháp năm 2013, vẫn còn tồn tại một số vấn đề cấp bách cần được giải quyết như:
Thứ nhất, việc thực hiện và áp dụng các quy định liên quan về việc làm trên toàn quốc còn thiếu thống nhất và không đồng đều. Mặc dù đã có sự hoàn thiện về mặt pháp lý và chính sách nhưng việc áp dụng chưa thực sự nhất quán giữa các địa phương, đặc biệt là giữa các thành phố và vùng nông thôn dẫn đến sự bất bình đẳng trong quyền lợi và điều kiện làm việc cho người lao động ở các khu vực khác nhau.
Thứ hai, người lao động còn thiếu hụt kiến thức và ý thức về quyền làm việc. Trên thực tế, một bộ phận người lao động, đặc biệt là người làm việc trong các ngành công nghiệp nhỏ và các khu công nghiệp chưa hiểu được thông tin đầy đủ về quyền lợi và cách thức bảo vệ quyền của mình. Do đó, người lao động dễ trở thành nạn nhân của việc vi phạm quyền lao động mà không biết cách tự vệ.
Thứ ba, còn tình trạng thiếu cân đối giữa nhu cầu lao động và nguồn cung lao động trên thị trường. Mặc dù có sự phát triển của nền kinh tế và xu hướng tăng trưởng công nghiệp nhưng chưa thực sự phù hợp giữa kỹ năng, trình độ của người lao động và yêu cầu của các ngành công nghiệp, dịch vụ hiện đại. Điều này dẫn đến tình trạng thất nghiệp ở một số lĩnh vực, trong khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn trong việc tìm kiếm lao động có kỹ năng phù hợp.
Thứ tư, công tác truyền thông và phổ biến thông tin đến người lao động chưa thực sự hiệu quả. Trên thực tế, có một số trường hợp người lao động không được thông tin đầy đủ về quyền lợi của mình hoặc không biết cách thức tìm kiếm sự hỗ trợ khi gặp phải vấn đề liên quan đến việc làm. Đặc biệt, những người lao động ở các vùng nông thôn, các dân tộc thiểu số và lao động nhập cư thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin về quyền lợi lao động. Ngoài ra, công tác truyền thông thường được tiến hành thông qua các kênh truyền thông truyền thống như truyền hình, radio, báo chí, trong khi đó, sự phát triển của công nghệ thông tin đã mở ra nhiều cơ hội mới trong việc truyền thông, điều này cho thấy, sự sáng tạo và đa dạng trong việc sử dụng các công cụ truyền thông hiện đại như mạng xã hội, ứng dụng di động để tiếp cận đối tượng người lao động một cách hiệu quả còn hạn chế.
3. Kiến nghị
Nhằm bảo đảm các nguyên tắc về quyền làm việc của công dân được thực thi một cách cụ thể và toàn diện, theo đúng tinh thần của Hiến pháp năm 2013, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và giải quyết những thách thức, hạn chế đang tồn tại, Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp sau:
3.1. Hoàn thiện khung pháp lý đáp ứng nhu cầu phát triển thị trường lao động đúng hướng, tập trung vào các lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm
- Tăng cường sự công khai, minh bạch của các chủ thể tham gia thị trường. Tiếp tục nội luật hóa và quy định cụ thể các tiêu chuẩn lao động phù hợp với điều kiện của Việt Nam và tiêu chuẩn quốc tế (các công ước của ILO, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới) mà Việt Nam cam kết, ký kết, tham gia. Thúc đẩy hợp tác quốc tế, tăng cường liên kết thị trường lao động trong và ngoài nước.
- Nghiên cứu, đề xuất ban hành, sửa đổi các chính sách để hạn chế thất nghiệp, nâng cao chất lượng lao động.
- Quy hoạch, đầu tư phát triển hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm hiện đại ở các địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiệu quả đóng vai trò đầu mối thông tin thị trường lao động, điều phối, hỗ trợ và quản trị thị trường lao động trên địa bàn. Sắp xếp, tổ chức lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp; xây dựng, đề xuất mô hình liên kết vùng trong đào tạo, cung ứng nguồn nhân lực; xây dựng các trung tâm vùng, trung tâm quốc gia đào tạo và thực hành nghề chất lượng cao theo vùng kinh tế trọng điểm nhằm tăng cường hiệu quả đào tạo và cung ứng nguồn nhân lực; đẩy mạnh chuyển đổi số trong đào tạo, cung ứng nguồn nhân lực, quản trị, vận hành thị trường lao động, tháo gỡ khó khăn để tạo điều kiện cho người lao động tiếp cận thông tin về thị trường lao động, tham gia học nghề và các hoạt động giao dịch việc làm, người sử dụng lao động dễ tiếp cận nguồn cung lao động.
- Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, chú trọng đào tạo lại, đào tạo thường xuyên cho lực lượng lao động nhằm tạo chuyển biến trong xây dựng xã hội học tập; kịp thời tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi để các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chủ trì tổ chức giảng dạy chương trình giáo dục thường xuyên cấp trung học phổ thông theo hướng đẩy mạnh phân luồng và bảo đảm quyền lợi của học sinh vừa được học nghề, vừa được học văn hóa ngay tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
3.2. Ổn định và phát triển thị trường lao động
- Bám sát thực tiễn, quản trị nguồn nhân lực chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ giữa các chính sách phát triển thị trường lao động với các thị trường khác để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm cân đối nền kinh tế, trong đó có cung - cầu lao động.
- Khẩn trương rà soát, đánh giá nhu cầu nhân lực theo từng ngành, lĩnh vực, từng vùng để kịp thời kết nối, cung ứng lao động.
- Rà soát, đánh giá, sắp xếp tổ chức, đầu tư nâng cao năng lực của hệ thống cơ sở đào tạo, giáo dục nghề nghiệp, nhất là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; các tổ chức đánh giá kỹ năng nghề.
- Tổ chức thực hiện các biện pháp để giải quyết tình trạng thiếu lao động cục bộ, mất cân đối cung - cầu lao động; phát triển các hình thức giao dịch việc làm theo hướng hiện đại trên nền tảng công nghệ số; thu hút lao động tại chỗ, đào tạo, đào tạo lại cho lực lượng lao động đang làm việc thích ứng với những biến động bất thường.
3.3. Tạo việc làm bền vững và sử dụng hiệu quả lực lượng lao động
- Tăng cường đầu tư, phát triển các ngành kinh tế tạo nhiều việc làm bền vững.
- Tập trung thực hiện các giải pháp để phân luồng, nâng cao chất lượng nhân lực đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.
- Tổ chức đào tạo, cung ứng kịp thời nhân lực cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), khắc phục tình trạng thiếu hụt lao động cục bộ.
- Hỗ trợ phát triển mạng lưới an sinh và bảo hiểm cho người lao động.
3.4. Đẩy mạnh công tác truyền thông
- Nâng cao nhận thức, nhất là của người đứng đầu một số cơ quan bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị về vai trò, tầm quan trọng phát triển thị trường lao động; chủ động có giải pháp hiệu quả để bảo đảm và phát triển thị trường lao động bền vững.
- Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền một cách bài bản, kịp thời, liên tục, nâng cao nhận thức của người lao động, người sử dụng lao động và các chủ thể tham gia thị trường lao động; bảo đảm ổn định và phát triển thị trường lao động.
4. Kết luận
Trong suốt 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013 cho thấy, đã có nhiều bước tiến đáng kể trong việc bảo đảm và thúc đẩy quyền làm việc tại Việt Nam. Những nỗ lực này đã tạo ra những kết quả tích cực như tăng cường về nhận thức và ý thức về quyền lợi lao động, việc làm được bảo đảm hơn và môi trường làm việc được cải thiện. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức cần được giải quyết để bảo đảm mọi người lao động đều được hưởng các quyền lợi công bằng và bảo vệ một cách toàn diện. Trong những năm tới, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục và truyền thông để nâng cao nhận thức, ý thức của cộng đồng về quyền lợi lao động và các chính sách liên quan. Đồng thời, cần thiết lập các cơ chế giám sát hiệu quả, tạo ra môi trường làm việc minh bạch và công bằng hơn. Chỉ khi đó, Việt Nam mới có thể đạt được một xã hội công bằng và phát triển bền vững, mọi người đều có cơ hội và quyền lợi bình đẳng trong cuộc sống và công việc./.
ThS. Nguyễn Thị Thu Thảo
Học viện Chính trị khu vực I
Tài liệu tham khảo
1. Hiến pháp năm 2013.
2. Bộ luật Lao động năm 2019.
3. Nghị quyết số 06/NQ-CP ngày 10/01/2023 của Chính phủ về phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập nhằm phục hồi kinh tế - xã hội.
4. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Lý luận và Pháp luật về Quyền con người, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, năm 2011.
5. Lê Thị Hoài Thu, Bảo đảm quyền con người trong pháp luật lao động Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2013.
6. PGS.TS. Vũ Hồng Anh, Bảo đảm quyền về việc làm trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 06 (478), tháng 3/2023.
7. TS. Bùi Sỹ Lợi, Bảo đảm quyền tự do làm việc cho người lao động ở Việt Nam, Tạp chí Xây dựng Đảng, năm 2020.
8. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, “Báo cáo về tình hình thị trường lao động và một số giải pháp trọng tâm nhằm phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập”, năm 2022.
9. Cục Thông tin đối ngoại, Bộ Thông tin và Truyền thông, Báo điện tử vietnam.vn, “Việt Nam tiếp tục là thành viên tích cực của Tổ chức Lao động Quốc tế”, năm 2023, https://www.vietnam.vn/viet-nam-tiep-tuc-la-thanh-vien-tich-cuc-cua-to-chuc-lao-dong-quoc-te/, truy cập ngày 30/6/2024.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 411), tháng 8/2024)