1. Quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính[1]
Thứ nhất, quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính có bản chất là những nhu cầu tự nhiên của con người. Cũng giống như các chủ thể khác trong xã hội, quyền của người LGBTI trước hết là những nhu cầu, khả năng, đặc quyền tự nhiên vốn có. Điều này được thể hiện qua hai góc độ: Sự công bằng trong quyền được sống và được tự do; quyền mưu cầu hạnh phúc.
- Về sự công bằng trong quyền được sống và được tự do: Người LGBTI là người bình thường như mọi cá nhân khác trong xã hội, có khả năng thực hiện các nghĩa vụ và được quyền hưởng các quyền bình đẳng, ngang bằng như những người khác. Một trong những quyền quan trọng nhất là quyền được công nhận và tôn trọng. Xã hội cần nhìn nhận người LGBTI như người bình thường với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ, không được phép miệt thị, xúc phạm hoặc coi họ như những bệnh nhân lệch lạc về tâm thần. Quyền được công khai xu hướng tính dục, bản dạng giới của mình và sống theo bản năng của xu hướng tính dục, bản dạng giới là một phần của tự do.
- Về quyền mưu cầu hạnh phúc: Trước hết, cần hiểu mưu cầu hạnh phúc là một dạng thể hiện của sự tự do, con người bằng khả năng của mình tìm kiếm hạnh phúc, các giá trị sống cho bản thân. Đây là điều hiển nhiên trong mọi chế độ chính trị - xã hội. Các giá trị sống đó được tạo dựng từ việc kết hôn, xây dựng gia đình hạnh phúc, được làm cha mẹ, lao động, hưởng các chế độ an sinh xã hội… và được nhà nước tôn trọng, bảo vệ các quyền, quan hệ ấy.
Cũng cần lưu ý rằng, tuy bản chất quyền của người LGBTI là nhu cầu tự nhiên nhưng việc ghi nhận các quyền này không phải bao giờ cũng đầy đủ như đối với các chủ thể khác trong xã hội. Điều này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như truyền thống, chính trị, tôn giáo... ở mỗi quốc gia, khu vực.
Thứ hai, quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính là hệ thống các quyền, trong đó có những quyền đặc thù. Trước hết, quyền của người LGBTI là hệ thống quyền chứ không phải là một quyền riêng rẽ, duy nhất. Về cơ bản, các quyền này tương tự như quyền của các chủ thể khác trong xã hội (quyền bầu cử, quyền ứng cử, quyền kết hôn, quyền có việc làm, quyền học tập...). Mức độ ghi nhận, bảo vệ các quyền này của người LGBTI ở các quốc gia là không giống nhau (ghi nhận, chưa ghi nhận, giới hạn, hạn chế quyền...). Bên cạnh đó, có một số quyền chỉ áp dụng cho đối tượng cụ thể của người LGBTI là: Quyền chuyển đổi giới tính (dành cho người chuyển giới) và quyền xác định giới tính (dành cho người liên giới tính). Đây là hai quyền tương đối đặc thù của người LGBTI xuất phát từ đặc điểm về bản dạng giới và trạng thái cơ thể của người chuyển giới và người liên giới tính.
Như vậy, có thể thấy, quyền của người LGBTI bao gồm hai nhóm chính: Nhóm quyền chung và nhóm quyền đặc thù.
2. Pháp luật về quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính
2.1. Sự cần thiết ghi nhận và bảo vệ quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính bằng pháp luật
Với bản chất là quyền tự nhiên, quyền của người LGBTI cần được pháp luật ghi nhận và bảo vệ để các khả năng, xu hướng và nhu cầu được trở thành hiện thực, góp phần bảo vệ quyền của người LGBTI trong thực tế. Việc pháp luật ghi nhận quyền của người LGBTI là yêu cầu tất yếu đặt ra trong bối cảnh xã hội ngày càng phát triển.
Dưới ảnh hưởng của sự kì thị, phân biệt đối xử, người LGBTI có thể được xem như đối tượng yếu thế trong xã hội. Khi tham gia vào các quan hệ kinh tế như tìm kiếm việc làm, cơ hội thăng tiến trong công việc, vấn đề nhà ở… họ sẽ gặp nhiều trở ngại và có thể bị đối xử bất công[2]. Hơn nữa, do người LGBTI chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ trong dân số nên tiếng nói chưa được chú trọng đúng mức; hệ quả là khả năng tự thân chống đỡ, tự bảo vệ khi quyền lợi chính đáng bị xâm phạm thường thấp. Do vậy, rất cần có pháp luật để bảo vệ người LGBTI khỏi các xâm phạm nói trên.
Về mặt chính trị, khi ban hành pháp luật cần chú trọng tới địa vị pháp lý, quyền và lợi ích của các bên để có những quy định phù hợp. Thực tế cho thấy, sự góp mặt trên các diễn đàn pháp luật của người LGBTI còn hạn chế nên họ chưa bày tỏ được hết quan điểm, nguyện vọng của mình để nhà làm luật xem xét và phát triển thành luật. Điều này không có nghĩa là chỉ đến khi người LGBTI lên tiếng thì pháp luật mới vào cuộc mà phải hiểu rằng, quyền được pháp luật bảo vệ các lợi ích chính đáng là đòi hỏi hợp lý của mọi công dân. Pháp luật khi được ban hành phải tính đến quyền lợi chung cho cả cộng đồng, trong đó quyền của những nhóm người thiểu số, dễ bị tổn thương phải được chú ý đến.
Đời sống xã hội ngày càng phát triển cũng thúc đẩy các đòi hỏi về quyền tự do, quyền sống của con người. Trong bối cảnh đó, người LGBTI đã nảy sinh các mâu thuẫn với xã hội liên quan đến các yêu cầu được xã hội công nhận sự tồn tại của mình, được đối xử công bằng, được kết hôn như những người khác, với những giá trị truyền thống, chuẩn mực văn hóa, đạo đức lâu đời. Để giải quyết mâu thuẫn trên đòi hỏi cần có sự điều chỉnh hợp lý của pháp luật, cần phải có những quy phạm điều hòa để duy trì trật tự xã hội hợp lý, đồng thời bảo vệ toàn diện các quyền cơ bản mà người LGBTI đáng được hưởng.
Mặt khác, nếu pháp luật không ghi nhận quyền của người LGBTI thì có thể dẫn đến hoặc tiếp tục tiếp diễn một số hệ quả như: Sự kì thị, phân biệt đối xử của xã hội với người LGBTI, kéo theo nhiều người kết hôn dị tính giả, gia đình của người LGBTI bị xã hội kì thị, tác động tiêu cực đến xã hội nói chung…
Như vậy, ghi nhận quyền của người LGBTI trong pháp luật là yêu cầu tất yếu và chính đáng, góp phần tôn trọng, bảo vệ nhân phẩm, phẩm giá của người LGBTI cũng như bảo vệ trật tự xã hội, giải quyết các mâu thuẫn xã hội phát sinh trong quá trình người LGBTI tìm kiếm, thể hiện các nhu cầu, tự do của bản thân. Ghi nhận quyền của người LGBTI trong pháp luật vừa bảo đảm cho người LGBTI có cơ sở pháp lý vững vàng để tự bảo vệ quyền lợi cho chính mình, vừa tạo cơ sở cho sự tuân thủ, tôn trọng các quyền đó của các chủ thể khác trong xã hội.
2.2. Những vấn đề pháp luật cần ghi nhận về quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948, Hiến chương Liên Hợp quốc, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 đều đề cập đến các quyền tự do cơ bản của con người. Như vậy, người LGBTI với tư cách là một bộ phận trong cộng đồng đó cần phải được thừa nhận và bảo vệ các quyền tự do, bình đẳng, quyền kết hôn và quyền được bảo vệ một cách cụ thể và rõ ràng. Nhìn nhận một cách toàn diện hơn, dưới lăng kính của xu hướng tính dục và bản dạng giới, pháp luật của bất kì quốc gia nào cũng cần xem xét, ghi nhận những vấn đề về quyền của người LGBTI như sau:
Một là, pháp luật cần có những quy định về quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử về xu hướng tính dục và bản dạng giới. Không phải quốc gia nào cũng có luật riêng về các nguyên tắc chống phân biệt đối xử, kì thị trong xã hội. Nhận thức trong xã hội về người LGBTI rất khác nhau. Nhiều quan niệm còn phân biệt, kì thị nhóm này mạnh mẽ. Chính vì vậy, sự ghi nhận của pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc định hướng nhận thức, góp phần chống lại kì thị, phân biệt đối xử đối với người LGBTI. Có thể pháp luật chưa ghi nhận các quyền khác cho người LGBTI (kết hôn cùng giới, chuyển đổi giới tính, nhận con nuôi chung...) nhưng trước tiên cần có văn bản luật hoặc các quy định về chống lại sự bất bình đẳng, phân biệt đối xử đối với họ trong xã hội.
Hai là, xem xét ghi nhận quan hệ sống chung của cặp đôi cùng giới bằng hình thức pháp lý cụ thể. Theo đó, có hai hình thức cơ bản để công nhận quan hệ sống chung của một cặp đôi cùng giới trên thế giới là hôn nhân bình đẳng (như cặp đôi dị tính) và sống chung có đăng kí (bị hạn chế một số quyền so với quan hệ hôn nhân bình đẳng). Thông thường, việc ghi nhận quan hệ hôn nhân bình đẳng của cặp đôi cùng giới không phải bao giờ cũng thuận lợi bởi những rào cản từ truyền thống, văn hóa, tôn giáo, chính trị, các đảng phái, chính sách... Chính vì vậy, một số quốc gia đã lựa chọn hình thức sống chung có đăng kí cho cặp đôi cùng giới, sau đó tiếp tục đấu tranh để ghi nhận quan hệ hôn nhân bình đẳng cho tất cả mọi người. Xem xét quyền kết hôn cùng giới được xem là vấn đề quan trọng nhất của người LGBTI trong thời gian qua. Có thể nhận thấy, việc chưa công nhận một hình thức pháp lý cho mối quan hệ sống chung giữa hai người cùng giới cũng có thể dẫn đến một số hệ quả pháp lý nhất định (quan hệ tài sản, quan hệ phát sinh khi sống chung...).
Ba là, xem xét, ghi nhận một số quyền liên quan đến cặp đôi cùng giới. Đó là các quyền về con cái như sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản của cặp đôi cùng giới nam, quyền nhận con nuôi chung, quyền đại diện cho nhau... Đây là những vấn đề đặt ra cả khi cặp đôi cùng giới đã hoặc chưa được ghi nhận mối quan hệ sống chung.
Bốn là, xem xét, ghi nhận quyền của người chuyển giới. Theo đó, cần xem xét, ghi nhận người chuyển giới và quyền chuyển đổi giới tính. Có nhiều mức độ công nhận khác nhau: (i) Không cần phẫu thuật, không cần sử dụng hooc-môn, chỉ cần trải qua kì kiểm tra tâm lí hoặc kiểm tra đời sống thực (thử sống như giới tính mong muốn); (ii) Chỉ sử dụng hooc-môn; (iii) Sử dụng hooc-môn, phẫu thuật chuyển đổi giới tính (phẫu thuật một phần, ví dụ chỉ phẫu thuật phần ngực); (iv) Sử dụng hooc-môn, phẫu thuật chuyển đổi giới tính (toàn bộ cơ thể). Khi người chuyển giới đã được chuyển đổi giới tính và thừa nhận giới tính mới thì nên cho họ hưởng các quyền nhân thân theo giới tính mới. Tuy nhiên, việc xây dựng pháp luật về chuyển đổi giới tính thường liên quan đến nhiều vấn đề cần nghiên cứu kĩ lưỡng, ví dụ như mức độ công nhận người chuyển giới, điều kiện về tình trạng hôn nhân trước khi chuyển đổi giới tính, quy trình chuyển giới, chi phí can thiệp y tế (Nhà nước hỗ trợ toàn bộ hoặc một phần hoặc không hỗ trợ), số lần được chuyển giới, trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ quân sự của người chuyển giới, vấn đề thi đấu thể thao của người chuyển giới... Trong đó, việc quy định mức độ công nhận người chuyển giới và điều kiện tình trạng hôn nhân của người chuyển giới trước khi can thiệp y tế rất quan trọng, cụ thể:
- Về mức độ công nhận người chuyển giới: Mỗi quốc gia có mức độ công nhận người chuyển giới khác nhau. Mức độ công nhận thông thường nhất là phải trải qua quy trình can thiệp y tế. Ở mức độ phát triển nhất, người chuyển giới không cần phải trải qua can thiệp y tế và chỉ cần thông qua một kì kiểm tra. Việc lựa chọn mức độ công nhận nào còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trình độ phát triển, quan niệm truyền thống, mức độ thích nghi với các thay đổi trong xã hội…
- Về điều kiện tình trạng hôn nhân trước khi can thiệp y tế: Đây là vấn đề khá phức tạp vì liên quan đến mối quan hệ gia đình của họ. Thông thường, phương án tối ưu nhất là quy định trước khi can thiệp y tế, người chuyển giới phải đang độc thân hoặc đã kết hôn nhưng đã li hôn. Nếu quốc gia nào đã thừa nhận quyền kết hôn cùng giới thì điều kiện về tình trạng hôn nhân không quá khắt khe (không cần phải đang độc thân).
Năm là, pháp luật cần ghi nhận quyền xác định giới tính của người liên giới tính. Đối với vấn đề này, cần quan tâm đến độ tuổi của người có quyền tiến hành phẫu thuật xác định giới tính, kĩ thuật, phương pháp xác định giới tính...
Sáu là, pháp luật về một số lĩnh vực khác cần bảo đảm quyền lợi chính đáng của người LGBTI, cụ thể là: Quyền trong lĩnh vực hình sự, tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự; phòng, chống bạo lực gia đình; tiếp cận pháp luật, quyền được trợ giúp pháp lý; bình đẳng giới; chính sách, pháp luật bảo vệ trẻ em là người LGBTI, đặc biệt là trẻ em đường phố, lang thang, cơ nhỡ... Tất cả những lĩnh vực pháp luật này cần được tiếp cận dựa trên hệ thống quan niệm, nhận thức đầy đủ về LGBTI để phân tích, đánh giá vấn đề trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
Bảy là, việc ban hành pháp luật ghi nhận quyền của người LGBTI cần giải quyết các mâu thuẫn, xung đột về quyền, lợi ích với các cá nhân khác trong xã hội. Bên cạnh đó, có thể thấy, từ trước đến nay, người LGBTI thường được xếp vào nhóm người dễ bị tổn thương. Khái niệm nhóm người dễ bị tổn thương được sử dụng phổ biến trong các văn kiện pháp lý quốc tế và trong các hoạt động nghiên cứu, thực tiễn về quyền con người trên thế giới. Mặc dù không có định nghĩa chính thức chung nào được đưa ra về nhóm người dễ bị tổn thương, tuy nhiên, từ các nguồn tài liệu và thực tiễn về quyền con người, có thể hiểu rằng, khái niệm này chỉ những cộng đồng, nhóm người có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn đa số, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con người, bởi vậy, họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những cộng đồng, nhóm người khác[3].
Trên thực tế, người LGBTI là nhóm thiểu số về xu hướng tính dục và bản dạng giới cũng như về đặc điểm cơ thể. Một câu hỏi có thể đặt ra là, đến thời điểm nào đó, người LGBTI được pháp luật ghi nhận tất cả các quyền giống như các chủ thể chiếm đa số khác trong xã hội thì họ có được xem là nhóm dễ bị tổn thương nữa hay không? Về bản chất, yếu tố dễ bị tổn thương được thể hiện thông qua nhiều góc độ khác nhau: Ghi nhận quyền, tiếp cận quyền, thực hiện quyền, bảo vệ quyền... Hơn nữa, trong nhóm người LGBTI vẫn còn có đối tượng trẻ em, phụ nữ, người già, người khuyết tật… Do vậy, nếu người LGBTI được ghi nhận tất cả các quyền như các chủ thể khác thì cũng chưa thể xóa bỏ hoàn toàn tính chất “dễ bị tổn thương” của họ. Trong nhiều lĩnh vực (lao động, việc làm, y tế...), yếu tố dễ bị tổn thương của người LGBTI được thể hiện chủ yếu trong quá trình tiếp cận và thực thi quyền (bị phân biệt đối xử, kì thị, lạm dụng...). Điều này cũng xảy ra tương tự đối với các nhóm yếu thế khác như phụ nữ, trẻ em, khuyết tật...
2.3. Hình thức thể hiện của pháp luật về quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính
Về cơ bản, chưa cần phải có một văn bản pháp luật riêng biệt để quy định về quyền của người LGBTI bởi quyền của người LGBTI hoàn toàn có thể được ghi nhận trong các văn bản pháp luật về quyền con người, quyền công dân chung với các chủ thể khác trong xã hội (quyền dân sự, chính trị, quyền kinh tế, xã hội và văn hóa). Tuy nhiên, có hai quyền đặc thù của người LGBTI cần được quy định cụ thể trong văn bản pháp luật chuyên ngành, đó là quyền chuyển đổi giới tính của người chuyển giới và quyền xác định giới tính của người liên giới tính.
Một là, đặc điểm của quá trình pháp luật xem xét, ghi nhận quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính. Quá trình pháp luật xem xét, ghi nhận quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính thường khá dài. Như đã nêu, dưới tác động của nhiều yếu tố khác nhau, việc thừa nhận người LGBTI và ghi nhận quyền của họ có những đặc thù và khó khăn nhất định. Nhìn chung, quyền của người LGBTI vẫn đang trong tiến trình xem xét, ghi nhận, vận động hợp pháp hóa ở nhiều nước trên thế giới. Vì vậy, việc quá trình này bị kéo dài và gặp nhiều rào cản là điều dễ hiểu, đồng thời, quá trình này còn phụ thuộc vào nhận thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan về người LGBTI. Việc xem xét, ghi nhận quyền của người LGBTI (nhu cầu của xã hội) có thể mâu thuẫn với nhu cầu quản lí nhà nước, với quyền lợi của các chủ thể khác trong xã hội và với các giá trị truyền thống...
Hai là, vấn đề thi hành pháp luật về quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính. Về cơ bản, với người LGBTI, việc trao quyền đã khó nhưng việc thực thi quyền còn khó hơn. Có thể thấy, các giải pháp thi hành pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy quyền của người LGBTI trong thực tế. Với đặc điểm của người LGBTI (người yếu thế, chiếm số lượng ít trong xã hội, đôi khi khó nhận diện, tiếp cận…) cho thấy việc quan tâm thúc đẩy hoạt động thi hành pháp luật về quyền còn quan trọng hơn việc ghi nhận quyền trong hệ thống pháp luật. Việc thi hành pháp luật về quyền của người LGBTI tập trung vào ba nhóm chủ thể cơ bản: Người LGBTI; cơ quan nhà nước; cá nhân, tổ chức khác trong xã hội. Trong đó, các cơ quan nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc ban hành các chính sách, pháp luật về quyền của người LGBTI và có các giải pháp chung để thúc đẩy việc thực thi quyền trong thực tế. Trong khi đó, các cá nhân, tổ chức khác trong xã hội là những nhân tố tích cực trong các phong trào xã hội bảo vệ, thúc đẩy quyền của người LGBTI cũng như hình thành nên hệ thống các quan điểm, nhận thức xã hội về vấn đề LGBTI. Đối với người LGBTI, việc tự nâng cao nhận thức, kiến thức của bản thân về quyền, tự bảo vệ quyền của bản thân thực sự rất quan trọng. Việc người LGBTI tích cực tham gia vào các hoạt động nhằm góp phần thay đổi các quan điểm tiêu cực hoặc chưa đúng đắn về cộng đồng LGBTI là rất cần thiết.
Giáo dục về quyền đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển quyền của bất kì xã hội nào. Vì vậy, cần quan tâm đầu tư thích đáng cho các hoạt động tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về người LGBTI cho các cán bộ trực tiếp xây dựng, thi hành pháp luật về quyền con người (tư pháp, giáo dục, y tế, lao động…). Cần phổ biến kiến thức, nâng cao nhận thức cho người dân về người LGBTI, quyền của người LGBTI, từ đó có hành vi ứng xử đúng đắn, tránh vi phạm quyền và lợi ích của người khác. Trong việc tuyên truyền, giáo dục về quyền, cần huy động các phương tiện báo chí, truyền thông và thu hút sự tham gia của các tổ chức xã hội nhằm nâng cao hiệu quả của các hoạt động và phổ biến thông tin cho chính những chủ thể quan trọng này.
Bên cạnh đó, việc áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên quyền trong xây dựng, thi hành pháp luật nói chung và quyền của người LGBTI nói riêng rất quan trọng. Đây là phương pháp tiếp cận lấy các tiêu chuẩn về quyền con người làm cơ sở xác định các kết quả mong đợi và lấy các nguyên tắc về quyền con người làm điều kiện, khuôn khổ cho quá trình tiến tới các kết quả đó.
Như vậy, có thể hiểu, pháp luật về quyền của người LGBTI là tổng thể các quy định pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và người dân với người LGBTI và bảo vệ các quyền của người LGBTI khi bị xâm phạm. Pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc hiện thực hóa, bảo vệ và thúc đẩy quyền của người LGBTI. Pháp luật về quyền của người LGBTI cần được xem xét, ghi nhận trong nhiều lĩnh vực khác nhau (bình đẳng, không bị phân biệt đối xử, hôn nhân và gia đình, dân sự, hình sự, hành chính…) và về cơ bản, chưa cần phải ban hành văn bản pháp luật riêng biệt để quy định quyền của người LGBTI. Quá trình pháp luật xem xét, ghi nhận quyền của người LGBTI thường khá dài và việc thi hành pháp luật về quyền của các đối tượng này khó khăn hơn so với việc ghi nhận quyền trong pháp luật.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng và thi hành pháp luật về quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính
Trong thực tế, các quan điểm liên quan đến người LGBTI vẫn còn chưa thống nhất ở những quốc gia, nhóm dân cư, thành phần xã hội khác nhau. Về cơ bản, việc xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật về quyền của người LGBTI bị ảnh hưởng bởi khá nhiều yếu tố, trong đó có một số yếu tố cơ bản sau:
3.1. Chủ nghĩa độc tôn dị tính
Quan niệm về người LGBTI bị ảnh hưởng khá nhiều bởi chủ nghĩa độc tôn dị tính (heterosexism). Đây là khái niệm lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1971 bởi Craig Rodwell - một nhà hoạt động đồng tính. Vì không phải là thuật ngữ khoa học mà là thuật ngữ ra đời bởi phong trào vận động quyền của người LGBTI, nên mỗi nhà hoạt động cũng có những cách sử dụng khác nhau của mình[4]. Nói một cách ngắn gọn, chủ nghĩa độc tôn dị tính là hệ thống những quan điểm để bảo vệ cho tính dục khác giới, bao gồm ba thành tố cơ bản: Quan điểm mặc định mọi người là dị tính; quan điểm cho rằng dị tính là ưu việt hơn, xem những gì ngoài dị tính đều là thấp kém hơn; tiến tới chối bỏ, tạo sự thiên vị, phân biệt đối xử với những thiểu số tính dục khác.
Như nhiều người vẫn hay nói, xã hội mà chúng ta đang sống là một “xã hội dị tính” và sống trong xã hội dị tính đó, các quan điểm về tính dục khác giới chiếm ưu thế. Đôi khi, những quan điểm đó được dùng để biện minh cho sự bất bình đẳng đối với người LGBTI hay các xu hướng tính dục, bản dạng giới khác. Điều cần nhấn mạnh, chủ nghĩa độc tôn dị tính không chỉ là sản phẩm của những người dị tính. Nhiều người LGBTI cũng thừa nhận và tuân theo hệ thống quan điểm này, hệ quả là họ trở nên mặc cảm, chối bỏ bản thân, chối bỏ bản dạng, hạ thấp lòng tự tôn, tự kỳ thị cùng nhiều vấn đề khác. Như vậy, việc ngầm định tất cả mọi người là dị tính và tối thiểu hóa khả năng một người không phải là dị tính nhiều khi là một quá trình vô thức. Nó xuất phát từ quan điểm lưỡng nguyên cho rằng chỉ có hai giới nam và nữ, nữ phải yêu nam và nam phải yêu nữ. Điều này vô hình trung đã “chuẩn hóa dị tính” và coi những khác biệt tính dục là khác thường, là không mong đợi hoặc thậm chí ghê sợ. Từ đó, đưa ra những thể chế để bảo hộ sự độc tôn dị tính. Đây chính là cội nguồn của những kỳ thị và phân biệt đối xử với người LGBTI. Để giải quyết vấn đề này, có lẽ nên bắt đầu bằng việc xóa bỏ mặc định cho rằng người thân, bạn bè, đồng nghiệp hoặc bất kỳ ai đó là dị tính và người LGBTI có thể là bất kỳ ai xung quanh chúng ta[5].
3.2. Yếu tố văn hóa
Đây là yếu tố có sự liên hệ mật thiết trong việc chi phối quan niệm về người LGBTI. Sự phát triển của xã hội cũng ảnh hưởng đến nhận thức của người dân đối với vấn đề LGBTI. Tuy nhiên, văn hóa thực chất là do con người tạo ra và con người hoàn toàn có thể thay đổi theo sự phát triển của xã hội. Những mô hình mới về gia đình, về sự đa dạng bản dạng giới đang dần thể hiện rõ nét trong xã hội. Trong bối cảnh ấy, sẽ có trường hợp người dân trong xã hội đồng tình phải bảo vệ người LGBTI nhưng khi đi sâu vào những quyền cụ thể thì có những thái độ khác nhau, ví dụ như không đồng ý cho hai người cùng giới có quyền kết hôn, không muốn cho người chuyển giới phẫu thuật... Quan niệm văn hóa truyền thống cũng khiến cho nhiều người nghi ngại khi đặt ra vấn đề công nhận quyền bình đẳng của người LGBTI (về đạo đức, duy trì nòi giống, trật tự xã hội, nuôi dạy con cái…). Đó là những lo ngại dễ hiểu và xuất hiện nhiều trong xã hội hiện đại.
Bên cạnh đó, quan niệm về bình đẳng giới cũng ảnh hưởng khá nhiều đến hoạt động xây dựng và thi hành pháp luật về quyền của người LGBTI. Theo quan niệm truyền thống, bình đẳng giới là bình đẳng giữa nam giới và nữ giới. Ngày nay, phạm vi của bình đẳng giới còn được xem xét dưới góc độ bình đẳng ngay trong cùng một giới. Ví dụ, ở nhiều quốc gia, cùng là phụ nữ nhưng một phụ nữ dị tính có quyền kết hôn với người khác giới còn hai phụ nữ không thể kết hôn với nhau. Ở đây đã có sự bất bình đẳng về quyền mưu cầu hạnh phúc giữa phụ nữ với nhau. Đây cũng là một rào cản trong nhận thức khi tiến hành xem xét, ghi nhận quyền kết hôn của cặp đôi cùng giới.
3.3. Yếu tố chính trị, tín ngưỡng và tôn giáo
Các yếu tố về chính trị, tín ngưỡng, tôn giáo cũng ảnh hưởng khá lớn đến quan niệm về người LGBTI và sự thừa nhận quyền của các đối tượng này.
Sẽ có nhiều người đặt câu hỏi tại sao nhiều quốc gia phát triển ở phương Tây vẫn chưa thừa nhận quyền đầy đủ của người LGBTI. Điều này xuất phát một phần từ đặc điểm hệ thống chính trị của những quốc gia đó được tổ chức theo nguyên tắc đa nguyên, đa đảng và nền dân chủ phát triển. Do vậy, sự xung đột lợi ích dẫn đến sự xung đột chính trị khiến cho vấn đề hợp pháp hóa các quyền của các đối tượng này trở nên khó khăn. Trong bối cảnh có nhiều ý kiến xung đột nhau, mâu thuẫn nhau làm cho quá trình xây dựng pháp luật về quyền của các đối tượng này bị kéo dài. Điều đó cho thấy, mặc dù nền dân chủ của các quốc gia ngày càng phát triển nhưng cũng kéo theo những hệ lụy nhất định. Ở những quốc gia đó, người dân được tự do tư tưởng, tự do ngôn luận để thể hiện ý chí của bản thân. Ngược lại, việc có nhiều đảng phái chính trị cũng khiến cho việc hợp pháp hóa một quyền nào đó đôi khi gặp khó khăn. Như vậy, yếu tố chính trị có tác động rất quan trọng đến tiến trình hợp pháp hóa các quyền bình đẳng của người LGBTI.
Về tín ngưỡng, từ xa xưa, con người cảm nhận thời gian qua những niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, họ đã hình dung ra thần thánh có sức mạnh thần kỳ, mặc nhiên thống trị cuộc sống nhân gian. Niềm tin đó tạo nên những hành động tương ứng, biểu hiện qua việc thờ cúng, các nghi lễ, tập tục (thể hiện rõ nét nhất ở khu vực châu Á). Tất cả điều đó làm nên tín ngưỡng dân gian. Trong đó, tín ngưỡng phồn thực coi trọng việc giao phối giữa nam và nữ nhằm sinh sôi nảy nở, phát triển giống nòi, vậy nên, tín ngưỡng phồn thực tuy không cấm mối quan hệ đồng tính nhưng nó lại xem mối quan hệ đồng tính là trái tự nhiên và đi trái lại niềm tin của tín ngưỡng này.
Về tôn giáo, các hệ thống tôn giáo tuy khác nhau nhưng về bản chất, nó đều hướng con người đến cái thiện, phù hợp với đạo đức con người và lối sống từ lâu đời của các dân tộc, từ đó đưa xã hội đi lên. Theo lẽ tự nhiên, gia đình là nơi bị chi phối mạnh mẽ nhất của tôn giáo. Mỗi thành viên có cách nghĩ riêng và từ đó hướng gia đình của mình theo những cách nghĩ khác nhau, cũng như mỗi gia đình chịu ảnh hưởng khác nhau từ nhiều tôn giáo. Do đó, chính những quan niệm này trong tôn giáo lại có tác động đối với quan niệm của người dân khi xem xét, nhìn nhận hay đánh giá về các quan hệ đồng tính hiện nay.
3.4. Yếu tố truyền thông và báo chí
Truyền thông và báo chí cũng là những yếu tố đóng vai trò quan trọng trong việc định hình nhận thức cho xã hội về người LGBTI cũng như trong hoạt động xây dựng, thi hành pháp luật về quyền của người LGBTI. Nếu truyền thông đúng đắn, đầy đủ thì nhận thức của xã hội cũng theo chiều hướng tích cực hơn. Nếu truyền thông sai lệch, tập trung phản ánh góc khuất trong đời sống của các đối tượng này thì xã hội sẽ có cái nhìn thiếu thiện cảm về họ. Như vậy, nếu như truyền thông và báo chí phản ánh các thông tin chân thực, đúng đắn sẽ đóng góp tích cực cho tiến trình vận động bảo vệ quyền của người LGBTI.
Ngoài ra, các yếu tố về sự phát triển của khoa học và công nghệ, y học, nơi cư trú, độ tuổi, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, kinh tế… cũng ảnh hưởng đến quan niệm về vấn đề LGBTI.
4. Một số đánh giá chung về quá trình xây dựng, thi hành pháp luật về quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính tại Việt Nam
Nhu cầu được bảo vệ quyền bình đẳng của người LGBTI là một thực tế tại Việt Nam thời gian qua. Tuy nhiên, việc thừa nhận những xu hướng quyền mới, quan niệm mới về quyền của các đối tượng này còn vướng khá nhiều rào cản. Quan niệm cá nhân cần phục tùng các trật tự xã hội và quy tắc đã được định sẵn cũng như các giá trị văn hóa truyền thống còn ảnh hưởng khá sâu sắc ở nước ta. Những khuôn mẫu về vai trò giới (gender stereotypes) trong một hệ thống tư duy nhị nguyên cùng với việc quy chuẩn hóa dị tính luyến ái (heteronormativity) đã cùng “bồi đắp” những hình mẫu lý tưởng về hôn nhân và gia đình “truyền thống”. Vì vậy, mặc dù có xuất hiện yêu cầu bảo đảm quyền của người LGBTI nhưng cần có lộ trình cụ thể, “dài hơi” cho quá trình xem xét, ghi nhận quyền của người LGBTI tại Việt Nam.
Có thể nhận thấy, cùng với sự phát triển của xã hội, Việt Nam đã có sự đổi mới trong tư duy lập pháp về quyền của người LGBTI (rộng hơn là vấn đề xu hướng tính dục, bản dạng giới). Đây thực sự là nỗ lực của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người. Qua nghiên cứu cho thấy, về cơ bản, pháp luật Việt Nam đã ghi nhận hầu hết các quyền của người LGBTI. Theo đó, người LGBTI có các quyền như các đối tượng khác trong xã hội. Các quyền của người LGBTI có thể phân chia thành hai nhóm: (i) Nhóm quyền chung (áp dụng chung cho người LGBTI và các đối tượng khác trong xã hội); (ii) Nhóm quyền đặc thù (quyền dành cho người chuyển giới và người liên giới tính). Tuy nhiên, pháp luật chưa ghi nhận một số quyền liên quan đến người LGBTI như quyền kết hôn của cặp đôi cùng giới, quyền nhận con nuôi chung của cặp đôi cùng giới, quyền về mang thai hộ của cặp đôi LGBTI... Các thuật ngữ như xu hướng tính dục, bản dạng giới, đồng tính, song tính, chuyển giới, liên giới tính rất hiếm khi xuất hiện trong các quy định pháp luật cụ thể. Tuy vậy, các vấn đề về quyền của người LGBTI được thể hiện thông qua nhiều kĩ thuật lập pháp khác nhau (ví dụ: Kết hôn giữa những người cùng giới tính, quy định về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ, thi hành án hình sự…) cũng gián tiếp ghi nhận hoặc chưa ghi nhận quyền của các đối tượng này. Có thể thấy, người LGBTI tại Việt Nam không phải chịu những quy định hà khắc, phân biệt đối xử như một số quốc gia trên thế giới, ví dụ như pháp luật Việt Nam không có những quy định cấm hiện tượng đồng tính/song tính/chuyển giới, bỏ tù/tử hình người đồng tính/quan hệ đồng tính...
Tuy nhiên, giữa ý thức, tư tưởng về quyền con người và quyền con người đã được thể chế hóa có một khoảng cách nhất định. Đó cũng là một hiện tượng tương đối phổ biến trên thế giới. Do vậy, một số quyền của các đối tượng này chưa được ghi nhận hoặc chưa hoàn thiện do Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật có liên quan (quyền kết hôn của cặp đôi cùng giới; quyền nhận con nuôi chung của cặp đôi cùng giới; quyền liên quan đến mang thai hộ cho cặp đôi LGBTI...). Đặc điểm này của Việt Nam cũng khá tương đồng với các quốc gia khác trên thế giới. Trước hết, cần quan tâm bảo đảm những vấn đề cấp bách cho người LGBTI như: Chống kỳ thị, phân biệt đối xử, giải quyết một số vấn đề khó khăn của người chuyển giới, trợ giúp pháp lý, tiếp cận pháp luật... Đối với những vấn đề liên quan đến quan hệ sống chung của cặp đôi cùng giới, con cái… cần có lộ trình nhất định.
Hoạt động thi hành pháp luật về quyền của người LGBTI đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm hiện thực hóa pháp luật về quyền của nhóm này. Chính vì vậy, cần có những giải pháp cụ thể, phù hợp với từng chủ thể, trong đó cần tiếp cận đầy đủ, toàn diện phương pháp tiếp cận dựa trên quyền trong hoạt động xây dựng và thi hành pháp luật. Chỉ có thực sự dựa trên con người, quyền con người thì mới có thể công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người trong thực tế.
Tại Việt Nam, trong thời gian tới, những vấn đề liên quan đến quan hệ sống chung của người LGBTI, các vấn đề về chống kỳ thị, phân biệt đối xử… sẽ còn tiếp tục được thảo luận và xem xét, ghi nhận./.
TS. Trương Hồng Quang
Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội
[1] Xem thêm: Trương Hồng Quang (2022), Quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính tại Việt Nam: Từ nhận thức đến thực tiễn, Sách chuyên khảo, Nxb. Tư pháp, Hà Nội; Trương Hồng Quang (2019), Quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính theo pháp luật Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (Học viện Khoa học xã hội), Hà Nội; Trương Hồng Quang (2019), Cơ sở lý luận về quyền và pháp luật về quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính, Tạp chí Luật học (Trường Đại học Luật Hà Nội), tr. 78 - 91.
[2] Dương Hoán, Quyền kết hôn của người đồng tính, Kỉ yếu tọa đàm khoa học: “Vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương”, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, 2010.
[3] Đỗ Hồng Thơm và Vũ Công Giao, Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương, Sách tham khảo, Nxb. Lao động xã hội, Hà Nội, 2011, tr. 24.
[4] Lương Thế Huy (2013), Chủ nghĩa độc tôn dị tính, http://dienngon.vn/Blog/Article/chu-nghia-doc-ton-di-tinh, truy cập ngày 10/8/2023.
[5] Lương Thế Huy (2013), Chủ nghĩa độc tôn dị tính, tlđd.