Thứ năm 19/06/2025 14:38
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thực tiễn pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu âm thanh ở Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới

Bài viết này phân tích những quy định pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về nhãn hiệu âm thanh và thực tiễn pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu âm thanh, từ đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này.

“Nhãn hiệu âm thanh” - một khía cạnh mới trong lĩnh vực bảo hộ trí tuệ, đang ngày càng trở nên quan trọng trong việc xác định và tạo dấu ấn riêng biệt cho các doanh nghiệp và sản phẩm của họ. Trái với quan niệm truyền thống về nhãn hiệu chỉ liên quan đến hình ảnh và từ ngữ, âm thanh đang trở thành một phương thức sáng tạo mới và hiệu quả để truyền đạt thông điệp và gợi nhớ trong tâm trí người tiêu dùng.

1. Khái quát về nhãn hiệu âm thanh

Thứ nhất, về điều kiện xác định nhãn hiệu âm thanh:

Hiện nay, trên thế giới chưa có định nghĩa nào thống nhất về nhãn hiệu âm thanh (Sound Trademark). Đạo luật Lanham của Hoa Kỳ về bảo hộ nhãn hiệu năm 1946 là một trong những văn bản pháp lý đầu tiên quy định về bảo hộ nhãn hiệu âm thanh. Theo đạo luật này thì khác với các tác phẩm âm nhạc, nhãn hiệu âm thanh có thể là một đoạn âm thanh hoặc cũng có thể là sự kết hợp của các loại âm thanh khác nhau như: Âm thanh từ các nhạc cụ, từ giọng hát hay tiếng kêu của động vật và âm thanh phát ra từ các vật dụng khác… đủ để người tiêu dùng có thể ghi nhớ và phân biệt được[1].

Với việc ký kết Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022 đã sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 72 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, theo đó, “dấu hiệu âm thanh thể hiện được dưới dạng đồ họa” là một điều kiện của nhãn hiệu được bảo hộ tại Việt Nam.

Thứ hai, nhãn hiệu âm thanh có những đặc điểm như: (i) Tính vô hình và khó xác định: Tính vô hình của nhãn hiệu âm thanh làm cho người tiêu dùng khó nhận biết nhãn hiệu âm thanh bằng thính giác hơn so với nhãn hiệu hình ảnh; (ii) Tính động và tính gián tiếp: Nhãn hiệu truyền thống bao gồm các yếu tố tĩnh và có thể được thể hiện trực tiếp; (iii) Tính xuyên thời gian và không gian: Các nhãn hiệu âm thanh được truyền tải bằng âm thanh có thể vượt qua giới hạn về thời gian, không gian và ngôn ngữ, dễ tiếp nhận, dễ hiểu, được chấp nhận và được phổ biến khắp thế giới thông qua các phương tiện truyền thông.

Thứ ba, ý nghĩa của việc bảo hộ nhãn hiệu âm thanh được thể hiện trên các phương diện:

- Bảo hộ nhãn hiệu âm thanh là bảo vệ quyền sử dụng nhãn hiệu của người đăng ký nhãn hiệu âm thanh, chủ sở hữu quyền sử dụng nhãn hiệu âm thanh và người tiêu dùng. Quy định pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu âm thanh tạo cơ sở pháp lý để cơ quan có thẩm quyền tiến hành giải quyết, xử lý các hành vi vi phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu âm thanh, qua đó, bảo đảm quyền của người đăng ký nhãn hiệu âm thanh và chủ sở hữu quyền sử dụng nhãn hiệu âm thanh theo pháp luật.

- Bảo hộ nhãn hiệu âm thanh khuyến khích các chủ thể trong thị trường cạnh tranh lành mạnh bằng cách liên tục cải thiện chất lượng hàng hóa và dịch vụ của họ cũng như danh tiếng của các sản phẩm mà họ sản xuất, kinh doanh và cung ứng dịch vụ; thu hút đầu tư và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

- Bảo hộ nhãn hiệu âm thanh nhằm thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam và bảo đảm hội nhập quốc tế.

2. Bảo hộ nhãn hiệu âm thanh theo pháp luật quốc tế và một số quốc gia, vùng lãnh thổ

Thứ nhất, quy định về bảo hộ nhãn hiệu âm thanh theo Hiệp định TRIPS:

Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Agreement on Trade-Related Aspects of Intellectual Property Rights - TRIPS) của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) quy định rõ ràng tại Điều 15: “Bất kỳ một dấu hiệu hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác, đều có thể làm nhãn hiệu hàng hóa…”. Đồng thời, Hiệp định nhấn mạnh: “Các thành viên có thể yêu cầu điều kiện đăng ký nhãn hiệu là nhãn hiệu có thể nhận thức được bằng thị giác”. Điều này có nghĩa là, chỉ cần dấu hiệu có tính đặc trưng hoặc có thể nhận biết được thì có thể đăng ký làm nhãn hiệu và yêu cầu về khả năng nhìn thấy không còn áp dụng bắt buộc mà là tùy chọn.

Hiệp ước Singapore về Luật Nhãn hiệu (Singapore Treaty on the Law of Trademarks) của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (World Intellectual Property Organization - WIPO) được thông qua tại Singapore ngày 27/3/2006 đã áp dụng cho tất cả các loại dấu hiệu có thể đăng ký làm nhãn hiệu của các bên ký kết. Hiệp ước này thống nhất và đơn giản hóa thủ tục hành chính đăng ký nhãn hiệu, thúc đẩy sự đồng nhất của hệ thống nhãn hiệu của các quốc gia, cho phép các bên hợp đồng đăng ký bất kỳ dấu hiệu nào làm nhãn hiệu. Các quy định thực hiện của Hiệp ước Singapore về Luật Nhãn hiệu được thông qua năm 2010 và có hiệu lực từ tháng 11/2011 đã đề ra tiêu chuẩn thống nhất cho việc đăng ký nhãn hiệu âm thanh: “Trường hợp nhãn hiệu được tuyên bố là nhãn hiệu âm thanh trong đơn, theo sự lựa chọn của cơ quan có thẩm quyền về nhãn hiệu, biểu thức của nhãn hiệu sẽ là ký hiệu âm nhạc hoặc mô tả bằng văn bản về âm thanh cấu thành nhãn hiệu hoặc bản ghi âm thanh đó ở định dạng tương tự hoặc kỹ thuật số, hoặc bất kỳ sự kết hợp của những điều đã nói ở trên”[2].

Thứ hai, quan điểm về bảo hộ nhãn hiệu âm thanh của một số quốc gia:

Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên công nhận nhãn hiệu âm thanh. Điều 45 của Đạo luật Lanham ban hành năm 1946 quy định, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận có thể bao gồm các từ, họ, ký hiệu, kiểu dáng hoặc sự kết hợp của các yếu tố trên. Nhãn hiệu được chỉ định ở đây bao gồm cả nhãn hiệu âm thanh. Nhưng cho đến năm 1978, Hội đồng xét xử và kháng cáo về nhãn hiệu Hoa Kỳ đã chính thức quy định, nhãn hiệu âm thanh có thể được chấp thuận và đăng ký làm nhãn hiệu. Các nhãn hiệu âm thanh nổi tiếng bao gồm: Nhãn hiệu 03 chiếc chuông của National Broadcasting Corporation (NBC), hay nhãn hiệu tiếng sói hú của Anheuser Bush và nhãn hiệu tiếng sư tử gầm của MGM (1986)…

Ở Liên minh châu Âu (EU), các công cụ chính của Luật Nhãn hiệu châu Âu là: Quy định số 207/2009 ngày 26/2/2009 của Hội đồng châu Âu về Nhãn hiệu Cộng đồng (Quy định nhãn hiệu Cộng đồng - CTMR) và Chỉ thị 2008/95/EC ngày 22/10/2008 để ước lượng luật của các quốc gia thành viên liên quan đến nhãn hiệu thương mại (sau đây gọi là “Chỉ thị”). EU cởi mở hơn đối với các quy định về nhãn hiệu âm thanh. Trên thực tế, định nghĩa pháp lý mở rộng tạo cơ hội cho bất kỳ dấu hiệu phi truyền thống nào được đăng ký dưới dạng nhãn hiệu miễn là chúng đáp ứng các tiêu chí. Điều 4 CTMR và Điều 2 Chỉ thị quy định bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng thể hiện bằng phác họa hình ảnh, từ ngữ, các chữ số… với điều kiện là các dấu hiệu đó có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa hoặc dịch vụ của doanh nghiệp khác. Như vậy, có thể thấy, phạm vi đăng ký bao gồm các dấu hiệu âm thanh. Việc cần làm trước tiên là chứng minh tính khác biệt của nhãn hiệu âm thanh.

Tại Canada, nước này đã chấp nhận đơn đăng ký nhãn hiệu âm thanh từ năm 2012 và nhãn hiệu âm thanh đầu tiên được phê duyệt là nhãn hiệu Lion’s Roar của MGM. Canada yêu cầu người nộp đơn gửi hình ảnh đại diện cho âm thanh đã đăng ký, chẳng hạn như hình siêu âm (tức là các đường nét và hình dạng của âm thanh). Quá trình đăng ký nhãn hiệu sẽ không được mở rộng cho các âm thanh dài hơn, chẳng hạn như các bài hát có bản quyền.

Tại châu Á, Nhật Bản đã chính thức công nhận đăng ký nhãn hiệu âm thanh trong Luật Nhãn hiệu được sửa đổi năm 1996. Theo đó, nhãn hiệu bao gồm chữ viết, hình vẽ, biểu tượng, hình dạng ba chiều, âm thanh hoặc kết hợp của chúng với màu sắc. Việc sử dụng nhãn hiệu có thể là hình dạng ba chiều hoặc âm thanh để thể hiện sản phẩm hoặc bao bì sản phẩm, đồ dùng cung cấp dịch vụ hoặc quảng cáo liên quan đến sản phẩm hoặc dịch vụ đó cũng được coi là việc sử dụng nhãn hiệu. Còn ở Hồng Kông, họ đã sửa đổi Luật Nhãn hiệu vào năm 2003, quy định nhãn hiệu có thể bao gồm chữ viết, biểu tượng, mẫu thiết kế, chữ cái, chữ viết, con số, yếu tố hình dạng, màu sắc, âm thanh, mùi hương, hình dạng của hàng hóa hoặc bao bì của chúng và bất kỳ sự kết hợp nào của các biểu hiện đó. Khi đăng ký nhãn hiệu âm thanh, có thể sử dụng các ký hiệu âm nhạc và ký hiệu phần trong nhạc để biểu thị giai điệu và nghỉ trong một đoạn nhạc và khi miêu tả nhãn hiệu âm thanh bằng văn bản, phải kèm theo bản nhạc. Hồng Kông đã chấp thuận hơn 10 nhãn hiệu âm thanh.

3. Bài học từ thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu âm thanh của thế giới

Qua phân tích có thể thấy, mặc dù các quốc gia có những quan điểm và cách thức bảo vệ nhãn hiệu âm thanh khác nhau, nhưng thông qua việc công nhận nó có vị trí pháp lý như một nhãn hiệu đã thể hiện nỗ lực của các quốc gia trong việc bảo vệ nhãn hiệu phi truyền thống và cung cấp những tư liệu tham khảo hữu ích cho việc hoàn thiện hệ thống bảo vệ nhãn hiệu tại Việt Nam.

Một là, về tính nổi bật của nhãn hiệu âm thanh, hiện nay, các loại dấu hiệu do doanh nghiệp sử dụng để nhận dạng sản phẩm và dịch vụ đã vượt ra ngoài phạm vi truyền thống của nhãn hiệu văn bản và đồ họa. Tiêu chí đăng ký nhãn hiệu không chỉ còn là thuộc tính thị giác, mà cũng bao gồm các dấu hiệu phi truyền thống như âm thanh, mùi hương… đã có thể được sử dụng để chỉ định sản phẩm hoặc dịch vụ và có các đặc điểm nổi bật của nhãn hiệu. Tuy nhiên, các quốc gia có các tiêu chí đánh giá tính nổi bật khác nhau. Đồng thời, thực tiễn các quốc gia cho thấy tính nổi bật của nhãn hiệu âm thanh có thể tồn tại trong nhãn hiệu chính nó, có thể được xác định trực tiếp.

Hai là, về khả năng đăng ký của nhãn hiệu âm thanh, hệ thống đăng ký nhãn hiệu âm thanh quốc tế chủ yếu dựa trên Hiệp định TRIPS của Tổ chức Thương mại Thế giới quy định rất rộng về các đối tượng nhãn hiệu có thể được bảo vệ theo luật pháp. Cho dù là nhãn hiệu truyền thống hay nhãn hiệu âm thanh, miễn là có khả năng phân biệt nguồn gốc hàng hóa hoặc dịch vụ thì đều nên được chấp thuận đăng ký. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022 của Việt Nam đã học hỏi từ kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực này, Điều 72 (sửa đổi) quy định dấu hiệu “âm thanh thể hiện dưới dạng đồ họa” cũng sẽ được bảo hộ tại Việt Nam.

Ba là, về phương thức biểu đạt của nhãn hiệu âm thanh, Liên minh châu Âu sử dụng phương pháp biểu đạt, mô tả âm thanh nghiêm ngặt, nhưng phương pháp này phù hợp hơn với biểu đạt âm nhạc và khó biểu đạt khi âm thanh không phải là âm nhạc. Mô hình biểu đạt mô tả được sử dụng bởi Hoa Kỳ tương đối linh hoạt, nhưng mô tả của người tiêu dùng về nhãn hiệu có tính chủ quan và mơ hồ, đồng thời tạo khó khăn cho việc chứng minh vi phạm nhãn hiệu. Theo đó, việc biểu đạt nhãn hiệu âm thanh ở nước ta nên quy định theo hướng khi nộp đơn đăng ký nhãn hiệu bằng dấu hiệu âm thanh phải tuyên bố trong đơn đăng ký, nộp mẫu âm thanh đáp ứng yêu cầu, mô tả nhãn hiệu âm thanh đã đăng ký và giải thích cách sử dụng nhãn hiệu. Khi mô tả nhãn hiệu âm thanh, phải mô tả âm thanh được sử dụng làm nhãn hiệu bằng hợp âm năm đường hoặc bản hợp âm đơn giản kèm theo mô tả bằng văn bản; nếu không thể mô tả bằng hợp âm năm đường hoặc bản hợp âm đơn giản thì phải mô tả bằng văn bản; mô tả nhãn hiệu phải phù hợp với mẫu âm thanh.

4. Đề xuất, kiến nghị

Thứ nhất, sớm ban hành văn bản hướng dẫn Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022 về bảo hộ nhãn hiệu âm thanh. Hiện nay, việc bảo hộ nhãn hiệu âm thanh mới chỉ được quy định trong Luật mà chưa có các quy định hướng dẫn, dẫn đến việc bảo hộ nhãn hiệu âm thanh vẫn chưa được triển khai thực hiện trên thực tế. Do đó, các cơ quan có thẩm quyền cần sớm nghiên cứu ban hành văn bản hướng dẫn và quy chế đăng ký, thẩm định nhãn hiệu âm thanh, thủ tục từ chối đăng ký nhãn hiệu âm thanh, quy định rõ các thủ tục đăng ký nhãn hiệu âm thanh, chuyển nhượng nhãn hiệu.

Thứ hai, cần tiếp tục tuyên truyền và nâng cao nhận thức về bảo hộ nhãn hiệu âm thanh. Việc đăng ký nhãn hiệu âm thanh ở Việt Nam còn rất mới so với các nước phát triển. Do đó, các cơ quan quản lý các cấp cần tích cực thực hiện các hoạt động tuyên truyền đa kênh, đa hình thức để phổ biến kiến ​​thức về nhãn hiệu âm thanh, nâng cao hiểu biết và nhận thức về tầm quan trọng của việc bảo hộ nhãn hiệu âm thanh của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân.

Thứ ba, cần chú trọng đào tạo đội ngũ nhân viên nhà nước thực hiện hoạt động đăng ký nhãn hiệu âm thanh.

Thứ tư, khuyến khích phát triển và sử dụng, đồng thời kết hợp việc bảo hộ nhãn hiệu âm thanh vào các chiến lược phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp.

Hoàng Văn Nhất

Phan Thị Quyên

Trường Đại học Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

[1]. Lanham Act § 45, 15 U.S.C. 1127 (2000), https://wipolex-res.wipo.int/edocs/lexdocs/laws/en/us/us177en.pdf, truy cập ngày 23/7/2023.

[2]. Xem Hiệp ước Singapore về Luật Nhãn hiệu, https://www.wipo.int/wipolex/en/text/290013, truy cập ngày 23/7/2023.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 388), tháng 9/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Xử lý hành vi sử dụng mã độc tống tiền theo pháp luật hình sự - Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Xử lý hành vi sử dụng mã độc tống tiền theo pháp luật hình sự - Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Hiện nay, các tội phạm sử dụng công nghệ cao để thực hiện các hành vi phạm tội diễn ra ngày càng phổ biến. Một trong những công nghệ cao để thực hiện các hành vi phạm tội, nguy hiểm, gây ra thiệt hại lớn cho xã hội được các tội phạm sử dụng nhiều nhất, chính là sử dụng mã độc tống tiền (Ransomware). Vì vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật để kịp thời phòng, chống những tác hại của Ransomware là thực sự cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Bài viết nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật của Hoa Kỳ và Trung Quốc, từ đó, kiến nghị, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Pháp luật về hòa giải thương mại của Việt Nam và Ấn Độ - Góc nhìn so sánh và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Việt Nam và Ấn Độ đều có khung pháp lý điều chỉnh hoạt động hòa giải thương mại, nhưng có sự khác biệt đáng kể về cơ chế vận hành và thực thi. Bài viết sử dụng phương pháp so sánh luật học để phân tích và đối chiếu quy định pháp luật giữa hai quốc gia, đồng thời, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp luật về hòa giải thương mại tại Việt Nam.

Vai trò của Nội các Nhật Bản trong hoạt động lập pháp và giá trị tham khảo cho Việt Nam

Nội các Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong quá trình lập pháp với quyền đề xuất hầu hết các dự thảo luật trình lên Quốc hội. Bài viết nghiên cứu, phân tích vị trí, vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của Nội các Nhật Bản trong hoạt động lập pháp, từ sáng kiến đến soạn thảo, đánh giá và thông qua luật. Đồng thời, so sánh với quy trình lập pháp tại Việt Nam, chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt quan trọng. Từ đó, đề xuất các giá trị mà Việt Nam có thể tham khảo nhằm nâng cao vị trí và vai trò của Chính phủ trong quá trình xây dựng pháp luật.

Hình phạt tiền - Dưới góc nhìn so sánh pháp luật hình sự Việt Nam với Liên bang Úc và kinh nghiệm cho Việt Nam

Hình phạt tiền ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong hệ thống hình phạt của nhiều quốc gia, kể cả Việt Nam và Liên bang Úc, như một biện pháp hiệu quả để xử lý các hành vi phạm tội, đặc biệt là các tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm do pháp nhân thực hiện. Bài viết phân tích quy định pháp luật hình sự về hình phạt tiền của Việt Nam và Liên bang Úc, làm rõ sự khác biệt về đối tượng pháp nhân chịu trách nhiệm, phương pháp xác định mức phạt, các yếu tố Tòa án cân nhắc và cơ chế thi hành; từ đó, rút ra một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo đối với Việt Nam.

Kết đôi dân sự theo pháp luật của Pháp và gợi mở quy chế pháp lý cho cặp đôi không muốn kết hôn tại Việt Nam

Trên thế giới, nhiều quốc gia đã ghi nhận và thiết lập quy định liên quan đến vấn đề chung sống như vợ chồng, bởi đây là hiện tượng khách quan và phổ biến trong xã hội. Bộ luật Dân sự Pháp đã thiết kế chế định kết đôi dân sự để điều chỉnh mối quan hệ giữa các cặp đôi chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn. Bài viết phân tích chế định kết đôi dân sự ở Pháp, thực trạng chung sống như vợ chồng ở Việt Nam và gợi mở về một số thay đổi của chính sách, pháp luật hôn nhân và gia đình tại Việt Nam.
Kiện phái sinh theo pháp luật của Vương quốc Anh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam[1]

Kiện phái sinh theo pháp luật của Vương quốc Anh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam[1]

Kiện phái sinh là một cơ chế pháp lý quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của cổ đông và công ty. Hình thức kiện này đã hình thành từ rất lâu tại Anh và được xây dựng dựa trên nền tảng thông luật. Ở Việt Nam, kiện phái sinh mới chỉ được ghi nhận thông qua các quy định pháp luật trong thời gian gần đây. Bài viết phân tích các quy định pháp lý về hình thức kiện phái sinh tại Vương quốc Anh, đánh giá những ưu điểm, hạn chế của cơ chế này, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện cơ chế kiện phái sinh, phù hợp với tình hình thực tiễn tại Việt Nam.

Xây dựng mô hình Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ tại Việt Nam - Kinh nghiệm từ Nhật Bản và Vương quốc Anh

Bài viết so sánh mô hình Tòa Thượng thẩm sở hữu trí tuệ chuyên sâu Nhật Bản và hệ thống Tòa án sở hữu trí tuệ xét xử linh hoạt ở Anh, từ đó, rút ra khuyến nghị cho Việt Nam, đề xuất thành lập Tòa án chuyên biệt về sở hữu trí tuệ tại các trung tâm kinh tế lớn, kết hợp mô hình xét xử phù hợp để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả.

Thuế carbon và cơ chế điều chỉnh biên giới carbon - Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý khung pháp lý cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada trong thiết kế và thực thi chính sách định giá carbon, đồng thời, chỉ ra những khoảng trống của pháp luật Việt Nam, đặc biệt, về Hệ thống đo lường, giám sát phát thải và Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon. Trên cơ sở đó, đề xuất lộ trình xây dựng luật thuế carbon, tích hợp Hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định, Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon nội địa và quy trình quản lý thuế minh bạch, giúp Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, bảo vệ doanh nghiệp và thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ - Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu về trí tuệ nhân tạo (AI), sự cần thiết ứng dụng AI trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) nhìn từ kinh nghiệm của một số quốc gia, khu vực dẫn đầu trong việc ứng dụng AI vào bảo hộ quyền SHTT như Hoa Kỳ, châu Âu, Trung Quốc… từ đó, nghiên cứu đưa ra một số gợi mở cho việc ứng dụng AI trong việc hoàn thiện pháp luật liên quan đến việc ứng dụng AI vào hoạt động bảo hộ quyền SHTT.

Chuẩn hợp đồng (Quasi contract) - Cơ sở pháp lý và đề xuất áp dụng tại Việt Nam

Bài viết phân tích khái niệm chuẩn hợp đồng (Quasi contract) trong hệ thống pháp luật Common Law và sự tương đồng với một số quy định trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, đồng thời đề xuất việc nghiên cứu lựa chọn có chọn lọc và áp dụng Quasi contract vào hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp và bảo vệ quyền lợi các bên.

Bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo - Nhìn từ thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết phân tích chính sách bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư liên quan đến trí tuệ nhân tạo (AI) ở một số quốc gia trên thế giới, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam về vấn đề này.

Cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả của bên thứ ba tại Hoa Kỳ và kinh nghiệm cho Việt Nam

Bài viết phân tích cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả của bên thứ ba (cơ chế Safe Harbor) trong luật pháp Hoa Kỳ và Việt Nam, từ đó, đưa ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật liên quan đến các trường hợp miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet.

Xây dựng luật thuế các-bon - Kinh nghiệm Singapore và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Thuế các-bon là một công cụ tài chính quan trọng nhằm giảm phát thải khí nhà kính bằng cách định giá lượng khí CO₂ thải ra môi trường. Việc áp dụng thuế này không chỉ giúp kiểm soát ô nhiễm mà còn tạo nguồn thu để đầu tư vào các giải pháp phát triển bền vững. Trong bối cảnh đã có nhiều quốc gia xây dựng, ban hành và áp dụng thuế các-bon, Việt Nam cần cân nhắc xây dựng khung pháp lý phù hợp cho việc áp dụng thuế các-bon trong nước. Singapore là một trong những quốc gia đi đầu ở Đông Nam Á trong xây dựng, áp dụng pháp luật về thuế các-bon với nhiều điểm nổi bật mà Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc, phù hợp với thực tế của Việt nam. Xuất phát từ đó, bài viết làm rõ một số kinh nghiệm nổi bật của Singapore về xây dựng Luật thuế các-bon, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

Xác định tình trạng việc làm của người làm việc thông qua nền tảng công nghệ theo Chỉ thị (EU) 2024/2831 và khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích quy định về xác định tình trạng việc làm của người làm việc thông qua nền tảng công nghệ theo Chỉ thị (EU) 2024/2831 ngày 23/10/2024 của Nghị viện và Hội đồng châu Âu về việc cải thiện điều kiện làm việc đối với công việc nền tảng (Chỉ thị (EU) 2024/2831) và thực trạng xác định tình trạng lao động tại Việt Nam hiện nay, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

Miễn trừ thông báo tập trung kinh tế - Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Tập trung kinh tế là quá trình giảm số lượng doanh nghiệp độc lập trên thị trường thông qua sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh nhằm mở rộng quy mô và nâng cao khả năng cạnh tranh. Hành vi này giúp tối ưu nguồn lực nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ hạn chế cạnh tranh, dẫn đến độc quyền, ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường và người tiêu dùng. Pháp luật cạnh tranh của Mỹ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản kiểm soát tập trung kinh tế qua quy định về thông báo giao dịch và các trường hợp miễn trừ thông báo đối với hành vi tập trung kinh tế ít tác động đến thị trường. Từ kinh nghiệm của những quốc gia này về các trường hợp được miễn thông báo tập trung kinh tế, nghiên cứu đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm