Chủ nhật 07/12/2025 16:37
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Vụ Pháp luật quốc tế - Những dấu ấn trong chặng đường 20 năm xây dựng và phát triển

Vụ Pháp luật quốc tế được thành lập từ ngày 05/8/2003 nhưng công tác pháp luật quốc tế đã có quá trình hình thành và phát triển trước đó tại Bộ Tư pháp. Trong 20 năm qua, Vụ Pháp luật quốc tế đã có những dấu ấn quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ, góp phần vào công cuộc hội nhập quốc tế của đất nước, làm tốt vai trò cầu nối giữa pháp luật trong nước và pháp luật quốc tế cũng như góp phần vào công việc hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước để phù hợp với tiêu chuẩn chung tiến bộ của quốc tế. Nhìn về tương lai, Vụ Pháp luật quốc tế cần tiếp tục đổi mới và có những bước đột phá trong sự phát triển để phát huy truyền thống, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong điều kiện hội nhập sâu rộng của đất nước.

Bộ Tư pháp được tái thành lập năm 1981, cùng với đó, công tác pháp luật quốc tế của Bộ Tư pháp được giao cho Phòng Pháp luật quốc tế và Hợp tác quốc tế[1], sau đó là Vụ Pháp luật quốc tế và Hợp tác quốc tế[2] (năm 1987). Ngày 05/8/2003, Vụ Pháp luật quốc tế được thành lập[3] và giữ vai trò trung tâm về công tác pháp luật quốc tế của Bộ Tư pháp. Từ đó đến nay, cùng với quá trình hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng của đất nước, đặc biệt khi Việt Nam gia nhập các thiết chế, khuôn khổ hội nhập quốc tế như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và sau đó là ký các hiệp định thương mại tự do (FTA), nhất là các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới cũng như trở thành thành viên, thiết lập quan hệ với một số tổ chức quốc tế về pháp luật (như Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế, Tòa trọng tài thường trực - PCA…) thì nhiệm vụ của Vụ Pháp luật quốc tế ngày càng đa dạng, phức tạp hơn.

1. Những bước tiến về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức trong quá trình phát triển

Có thể chia quá trình phát triển của Vụ Pháp luật quốc tế làm hai giai đoạn lớn trong 20 năm xây dựng và phát triển như sau:

1.1. Giai đoạn 2003 - 2012

Trong 05 năm đầu kể từ khi thành lập (2003 - 2008)[4], Vụ Pháp luật quốc tế đã được giao 08 nhóm nhiệm vụ về pháp luật quốc tế, gồm:

- Đề xuất chủ trương phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến công pháp quốc tế, tư pháp quốc tế và pháp luật thương mại quốc tế;

- Chủ trì hoặc tham gia xây dựng các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế liên quan đến công pháp quốc tế, tư pháp quốc tế và pháp luật thương mại quốc tế;

- Đề xuất kế hoạch, phương án ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ; theo dõi việc thực hiện các kế hoạch, phương án đó sau khi được phê duyệt; chủ trì soạn thảo, đàm phán, hoàn thiện thủ tục để trình cơ quan có thẩm quyền ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp và các điều ước quốc tế khác thuộc lĩnh vực được phân công, thực hiện các hoạt động tương trợ tư pháp quốc tế theo quy định;

- Tổ chức triển khai, hướng dẫn, đánh giá việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế thuộc lĩnh vực được phân công;

- Chuẩn bị văn bản cấp ý kiến pháp lý đối với các điều ước quốc tế về ODA, hồ sơ dự án vay vốn nước ngoài, xử lý nợ nước ngoài và các ý kiến pháp lý khác theo quy định của pháp luật;

- Tham gia hoạt động của các tổ chức quốc tế, diễn đàn quốc tế theo sự phân công của Bộ trưởng;

- Tham gia giải quyết về mặt pháp lý các tranh chấp quốc tế có liên quan đến Việt Nam theo sự phân công của Bộ trưởng.

Có thể thấy, đó là khối lượng công việc tương đối lớn, trong khi số lượng công chức của Vụ Pháp luật quốc tế ở thời điểm thành lập chỉ có 12 người được tách ra từ Vụ Pháp luật quốc tế và Hợp tác quốc tế. Cơ cấu của Vụ Pháp luật quốc tế lúc này chỉ có Vụ trưởng và 02 Phó Vụ trưởng, không có phòng chuyên môn trực thuộc. Trong 05 năm đầu khi mới thành lập, số lượng biên chế chưa được bổ sung nhiều, đến cuối năm 2008, công chức của Vụ mới tăng lên được 17 người. Tuy nhiên, với nỗ lực của tập thể công chức, Vụ Pháp luật quốc tế đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, điển hình là việc hoàn thiện khung pháp lý để thực hiện Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, đàm phán và gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, ký kết nhiều hiệp định thương mại, thương mại tự do khác. Với thành tích đạt được, năm 2008, Vụ Pháp luật quốc tế được tặng thưởng Cờ thi đua Ngành Tư pháp và một số công chức của Vụ được tặng thưởng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ.

Từ năm 2009 đến hết năm 2012[5] là giai đoạn bắt đầu của quá trình phát triển mạnh mẽ của công tác pháp luật quốc tế của Bộ Tư pháp do tác động của hội nhập quốc tế sâu rộng của đất nước. Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 và sau đó là Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp đã tăng cường nhiệm vụ về pháp luật quốc tế cho Bộ Tư pháp. Trong giai đoạn này, Vụ Pháp luật quốc tế được củng cố chức năng, nhiệm vụ và tổ chức nhằm đáp ứng yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp, pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, theo đó, Vụ Pháp luật quốc tế được giao thêm giúp Bộ trưởng thực hiện một số nhiệm vụ sau:

- Đảm nhiệm vai trò cơ quan quốc gia trong quan hệ với các thành viên và Cơ quan thường trực của Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế; đề xuất tham gia các diễn đàn, hội nghị, hoạt động quốc tế về tư pháp quốc tế và phối hợp đề xuất tham gia, thúc đẩy quan hệ với các tổ chức tư pháp quốc tế;

- Làm đại diện pháp lý cho Chính phủ trong các tranh chấp quốc tế theo quy định pháp luật hoặc theo sự phân công của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;

- Đề cử, quản lý chuyên môn của đại diện của Bộ Tư pháp tại Phái đoàn thường trực của Việt Nam bên cạnh Liên Hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế giới và các tổ chức quốc tế khác tại Geneva, Thụy Sỹ.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ, những năm từ 2009 - 2012, Vụ Pháp luật quốc tế cũng được kiện toàn về cơ cấu tổ chức bao gồm 01 Vụ trưởng, 03 Phó Vụ trưởng và 04 phòng (Phòng Tư pháp quốc tế và so sánh pháp luật, Phòng Pháp luật thương mại và hội nhập quốc tế, Phòng Công pháp quốc tế và các vấn đề về nhân quyền, Phòng Tổng hợp và các vấn đề chung về pháp luật quốc tế).

1.2. Giai đoạn 2013 - 2023

Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, đất nước ta bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế toàn diện và chủ trương này được tiếp tục khẳng định mạnh mẽ hơn tại nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và lần thứ XIII. Điều này đặt ra cho công tác pháp luật quốc tế cần có sự chuyển mình về chất, đặc biệt từ năm 2017 đến nay có những xu hướng mới, phức tạp của quốc tế (nhất là trong quan hệ của các nước lớn như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Liên bang Nga, Ấn Độ và châu Âu) có ảnh hưởng sâu sắc đến hội nhập quốc tế của Việt Nam. Theo đó, chức năng, nhiệm vụ của Vụ Pháp luật quốc tế một lần nữa lại được điều chỉnh để phù hợp trong giai đoạn này. Cụ thể, ngoài chức năng, nhiệm vụ đã được giao ở giai đoạn 2009 - 2012, Vụ Pháp luật quốc tế tiếp tục được củng cố về nhiệm vụ và được giao thêm một số mảng công việc:

- Công tác quản lý nhà nước về tương trợ tư pháp tiếp tục được củng cố; bên cạnh đó, được giao thêm nhiệm vụ nghiên cứu, gia nhập các điều ước quốc tế về tư pháp quốc tế và giúp Bộ trưởng thực hiện nhiệm vụ Cơ quan đầu mối quốc gia trong thực thi Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài;

- Giúp Bộ trưởng thực hiện các nhiệm vụ liên quan tới quy chế thành viên Việt Nam tại Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị; đầu mối của Bộ Tư pháp thực hiện các nhiệm vụ tại Công ước Liên Hợp quốc về chống tham nhũng;

- Nhiệm vụ của Vụ Pháp luật quốc tế về giải quyết tranh chấp quốc tế được quy định rõ hơn với việc xác định là đơn vị giúp Bộ trưởng thống nhất quản lý công tác giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế và làm đại diện cho Chính phủ đối với công tác này.

Từ năm 2019 đến nay, chức năng, nhiệm vụ của Vụ Pháp luật quốc tế tương đối ổn định theo các mảng công tác đã được định hình ở những năm trước (2013 - 2018) như đã nêu trên. Tuy nhiên, số lượng và mức độ phức tạp của công việc ngày càng tăng cao, do việc tác động của quá trình hội nhập sâu rộng của đất nước, nhất là mảng công việc liên quan đến giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế, tư pháp quốc tế và pháp luật thương mại quốc tế.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ ở giai đoạn này, cơ cấu tổ chức của Vụ Pháp luật quốc tế luôn ổn định. Theo đó, Lãnh đạo Vụ có 01 Vụ trưởng, 03 Phó Vụ trưởng và 04 phòng chuyên môn. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của lĩnh vực pháp luật quốc tế, đến giữa năm 2022, ngoài Vụ trưởng, Vụ Pháp luật quốc tế có 04 Phó Vụ trưởng. Hiện nay, Vụ Pháp luật quốc tế có 04 phòng chuyên môn là: Phòng Công pháp và nhân quyền quốc tế, Phòng Tư pháp quốc tế và tương trợ tư pháp, Phòng Pháp luật đầu tư nước ngoài và giải quyết tranh chấp quốc tế, Phòng Pháp luật thương mại, tài chính quốc tế và tổng hợp.

2. Những thành tựu nổi bật của Vụ Pháp luật quốc tế sau 20 năm xây dựng và phát triển

2.1. Giai đoạn từ khi thành lập đến năm 2013

Trong giai đoạn từ khi thành lập đến năm 2013, Vụ Pháp luật quốc tế đã thực hiện tốt những nhiệm vụ pháp luật quốc tế của Bộ Tư pháp, trong đó phải kể đến:

Thứ nhất, giúp Bộ Tư pháp chủ trì xây dựng, trình Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, Nghị quyết số 71/2006/NQ-QH11 ngày 29/11/2006 của Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bên cạnh đó, Vụ Pháp luật quốc tế cũng đã tham gia tích cực vào xây dựng những quy định điều chỉnh các quan hệ có yếu tố nước ngoài trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2009, Bộ luật Dân sự năm 2004, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2005...

Thứ hai, chủ động rà soát pháp luật để thực hiện Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, thực hiện các cam kết trong ASEAN và chuẩn bị cơ sở pháp lý, tham gia đàm phán của Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), các khuôn khổ hội nhập kinh tế quốc tế đa phương, song phương, khu vực khác và xử lý nhiều vướng mắc pháp lý liên quan đến các dự án đầu tư nước ngoài; chủ trì, đại diện pháp lý cho Chính phủ giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế.

Thứ ba, Vụ Pháp luật quốc tế đã tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 3821/QĐ-BTP ngày 12/9/2011 phê duyệt Đề án tổng thể thực hiện Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20/7/2010 về công tác nhân quyền trong tình hình mới và thực hiện các khuyến nghị được Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp quốc thông qua theo cơ chế kiểm điểm định kỳ (UPR).

Thứ tư, trong thời gian này, Vụ Pháp luật quốc tế đã chủ trì thành công nhiều đề tài khoa học cấp Bộ liên quan đến pháp luật quốc tế[6] và phối hợp cùng Tạp chí Dân chủ và Pháp luật xuất bản nhiều ấn phẩm khoa học về pháp luật quốc tế, ví dụ: Số chuyên đề về hội nhập kinh tế quốc tế năm 2007…

2.2. Giai đoạn từ năm 2013 đến nay

Từ năm 2013 đến nay, do tác động của quá trình hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng của đất nước, ngoài các nhiệm vụ đã có ở giai đoạn trước, Vụ Pháp luật quốc tế tiếp tục được giao thêm nhiều nhiệm vụ phức tạp về pháp luật và xử lý các vấn đề pháp lý quốc tế[7]. Trong khi đó, số lượng biên chế của Vụ còn hạn chế, chưa đáp ứng đủ số lượng so với yêu cầu của công việc. Tuy nhiên, với sự nỗ lực, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, Vụ Pháp luật quốc tế đã không ngừng cải tiến, đổi mới phương thức làm việc, ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ, đặc biệt là những thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào công việc của Vụ.

Bên cạnh đó, nhận thức rõ về vai trò của công tác pháp luật quốc tế trong công cuộc hội nhập sâu rộng của đất nước đã được đề ra tại các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, trong đó có Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới và các văn bản, chính sách của Đảng, Nhà nước. Ngày 14/4/2022, Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp ban hành Nghị quyết số 25-NQ/BCSĐ về những định hướng lớn về công tác pháp luật quốc tế của Bộ Tư pháp đến năm 2030 (Nghị quyết số 25-NQ/BCSĐ) và Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 1692/QĐ-BTP ngày 09/8/2022 ban hành Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/BCSĐ. Đây là những cơ sở chính trị, pháp lý quan trọng để phát triển công tác pháp luật quốc tế của Bộ Tư pháp.

Với sự nỗ lực, cố gắng trong suốt thời gian qua, với quyết tâm thực hiện tốt những nhiệm vụ về công tác pháp luật quốc tế được định hướng trong các văn bản nêu trên, Vụ Pháp luật quốc tế đã đạt được những thành tựu nổi bật như sau:

a) Về công tác xây dựng pháp luật

Vụ Pháp luật quốc tế đã trực tiếp chủ trì xây dựng Phần thứ 5 (Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài) của Bộ luật Dân sự năm 2015; tham gia sâu rộng, có chất lượng vào việc xây dựng các nội dung có yếu tố nước ngoài của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác; rà soát các văn bản quy phạm pháp luật về quyền con người với các quy định của Hiến pháp năm 2013. Cùng với đó, Vụ Pháp luật quốc tế cũng thực hiện rà roát văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và các ký kết quốc tế trong khuôn khổ ASEAN. Đồng thời, trong năm 2020, Vụ đã tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 14/2020/QĐ-TTg ngày 08/4/2020 về Quy chế phối hợp giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế (Quyết định số 14/2020/QĐ-TTg) để thay thế Quyết định số 04/2014/QĐ-TTg ngày 14/01/2014.

Bên cạnh đó, hàng năm, Vụ Pháp luật quốc tế chủ trì góp ý, thẩm định gần 70 văn bản quy phạm pháp luật trong nước, trong đó có nhiều văn bản có nội dung phức tạp. Chỉ riêng trong năm 2022, ở lĩnh vực pháp luật về thuế xuất nhập khẩu, Vụ Pháp luật quốc tế đã chủ trì thẩm định 17 nghị định về Biểu thuế xuất khẩu ưu đãi, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện các hiệp định thương mại tự do, trong đó có các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.

Ngoài ra, công chức của Vụ Pháp luật quốc tế cũng tham gia với tư cách thành viên Ban soạn thảo, Tổ biên tập của nhiều luật, văn bản dưới luật có nội dung chủ yếu liên quan đến pháp luật quốc tế.

b) Về công tác góp ý, thẩm định điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế

Hàng năm, Vụ Pháp luật quốc tế thẩm định, góp ý khoảng hơn 150 điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế. Bên cạnh đó, Vụ Pháp luật quốc tế cũng phối hợp với các bộ, ngành chủ trì, tham gia đàm phán nhiều điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế trong lĩnh vực tư pháp, công pháp quốc tế như các công ước trong Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế, hiệp định tương trợ tư pháp, các hiệp định thương mại tự do và Hiệp định về biên giới, lãnh thổ…

c) Về lĩnh vực tư pháp quốc tế và tương trợ tư pháp

Công tác quản lý nhà nước về tương trợ tư pháp đã thực sự bắt đầu đi vào chiều sâu và chất lượng. Thực hiện nhiệm vụ này, Vụ Pháp luật quốc tế đã phối hợp chặt chẽ với các đơn vị đầu mối của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao từng bước hoàn thiện thể chế pháp luật về tương trợ tư pháp; định kỳ hàng năm giúp Chính phủ xây dựng báo cáo công tác tương trợ tư pháp của Chính phủ trình Quốc hội. Liên quan đến công tác này, trong năm 2022, triển khai Kết luận số 19-KL/TW ngày 14/10/2021 của Bộ Chính trị về định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV (Kết luận số 19-KL/TW) và Quyết định số 2114/QĐ-TTg ngày 16/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị và Đề án định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, Vụ Pháp luật quốc tế đã trình Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1188/QĐ-BTP ngày 18/5/2022 về Kế hoạch tổng kết 14 năm thực hiện Luật Tương trợ tư pháp và đã hoàn thành việc tổng kết Luật theo đúng kế hoạch. Trên cơ sở đó, Vụ Pháp luật quốc tế đang tham mưu Lãnh đạo Bộ lập đề nghị xây dựng Luật Tương trợ tư pháp về dân sự.

Bên cạnh đó, mỗi năm, Vụ Pháp luật quốc tế tiếp nhận, chuyển giao nước ngoài gần 4.000 hồ sơ ủy thác tư pháp dân sự và nhận, xử lý khoảng hơn 1.000 hồ sơ của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài gửi tới Việt Nam; phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Ngoại giao hướng dẫn nghiệp vụ ủy thác tư pháp về dân sự cho các Tòa án nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Trong giai đoạn từ năm 2020 - 2022, do tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, việc thực hiện ủy thác tư pháp gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, Vụ đã có giải pháp chuyển các hồ sơ ủy thác tư pháp giữa các cơ quan trung ương thông qua đường điện tử nên về cơ bản hoạt động ủy thác tư pháp không bị gián đoạn.

d) Về công tác công pháp và nhân quyền quốc tế

Vụ Pháp luật quốc tế đã chủ động tham gia chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành triển khai các hoạt động trong lĩnh vực công pháp quốc tế, góp phần đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương, góp phần đẩy mạnh các hoạt động hội nhập quốc tế sâu rộng như: Thực hiện nhiệm vụ đầu mối của Bộ Tư pháp trong triển khai Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết số 36-NQ/TW) và Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 05/3/2020 của Chính phủ ban hành kế hoạch tổng thể và kế hoạch 05 năm của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW; tham gia góp ý các văn bản có liên quan.

Liên quan đến thực thi Công ước Liên Hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR), Vụ Pháp luật quốc tế được giao nhiệm vụ chủ trì xây dựng Báo cáo quốc gia lần thứ ba của Việt Nam về thực thi Công ước này. Báo cáo này đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và chính thức gửi tới Ủy ban Nhân quyền vào tháng 12/2017. Tháng 3/2019, Bộ Tư pháp - với vai trò là cơ quan đầu mối quốc gia thực thi Công ước Liên Hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị, đã tổ chức bảo vệ thành công Báo cáo thực thi Công ước lần thứ ba của Việt Nam trước Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp quốc. Thông qua báo cáo và phiên đối thoại với Ủy ban Nhân quyền, Việt Nam đã cung cấp đầy đủ thông tin về hệ thống pháp luật, những thành tựu đạt được trong quá trình triển khai Công ước Liên Hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị, cũng như quyết tâm của Việt Nam trong bảo vệ quyền con người nói chung và các quyền dân sự, chính trị nói riêng.

Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Quyết định số 1252/QĐ-TTg ngày 26/9/2019 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt kế hoạch tăng cường thực thi hiệu quả Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và các khuyến nghị của Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp quốc và nhiệm vụ nêu tại Mục B.I.4 Quyết định số 3028/QĐ-BTP ngày 04/12/2019 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về tăng cường thực thi hiệu quả Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và các khuyến nghị của Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp quốc, Vụ Pháp luật quốc tế là cơ quan đầu mối, chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành xây dựng dự thảo Báo cáo thực thi Công ước lần thứ tư. Ngày 22/3/2023, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt nội dung, cho phép nộp Báo cáo thực thi Công ước Liên Hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị lần thứ tư tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, Bộ Tư pháp đã thực hiện các thủ tục để nộp báo cáo đến Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp quốc đúng hạn. Báo cáo thực thi Công ước Liên Hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị lần thứ tư của Việt Nam đã được đăng tải trên website của Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp quốc.

đ) Thực hiện nhiệm vụ đại diện pháp lý cho Chính phủ; chủ trì, tham gia giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế

Trong những năm gần đây, Vụ Pháp luật quốc tế thường xuyên giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp chủ trì hoặc hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương thực hiện phòng ngừa, giải quyết các tranh chấp đầu tư quốc tế. Hàng năm, Vụ Pháp luật quốc tế chủ trì xử lý các vụ kiện Chính phủ Việt Nam tại trọng tài quốc tế và chủ trì tham vấn với nhà đầu tư có yêu cầu tham vấn, thương lượng theo quy định của các điều ước quốc tế liên quan. Bên cạnh đó, với vai trò là đại diện pháp lý cho Chính phủ, Vụ đã tiến hành hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương trong những vụ tranh chấp đầu tư quốc tế khác do các bộ, ngành, địa phương chủ trì tại trọng tài quốc tế (Bộ Công Thương, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính, Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh...) và hướng dẫn các địa phương liên quan đến nhiều vụ việc nhà đầu tư nước ngoài có vướng mắc, khiếu kiện.

Ngoài ra, trong năm 2022, Vụ Pháp luật quốc tế chủ trì tham mưu, xây dựng Chỉ thị của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với công tác phòng ngừa, giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế.

e) Về việc tham gia xây dựng thể chế pháp lý đa phương trong khuôn khổ Ủy ban Liên Hợp quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL)

Thực hiện Quyết định số 58/QĐ-TTg ngày 19/8/2019 của Thủ tướng Chính phủ ban hành kế hoạch Việt Nam đảm nhận vai trò thành viên Ủy ban Luật Thương mại quốc tế thuộc Liên Hợp quốc (UNCITRAL) nhiệm kỳ 2019 - 2025, Bộ Tư pháp (Vụ Pháp luật quốc tế) được giao chủ trì Nhóm Công tác số II (Trọng tài và hòa giải), Nhóm Công tác số III (Cải tổ cơ chế giải quyết tranh chấp nhà nước - nhà đầu tư), Nhóm Công tác số VI (Yêu cầu bán tàu theo phương thức tư pháp) thuộc UNCITRAL. Vụ Pháp luật quốc tế đã tích cực thực hiện vai trò của mình trong các nhóm công tác.

g) Về đàm phán, thực hiện các hiệp định thương mại tự do

Đối với công tác này, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các bộ, ngành khác đàm phán các hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương, nhất là các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và gần đây là nâng cấp Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), Hiệp định thành lập Khu thương mại tự do ASEAN - Australia và New Zealand (AANZFTA); chuẩn bị cho việc đàm phán Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Canada (ACaFTA) và xây dựng biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam theo Hiệp định thương mại dịch vụ ASEAN (ATISA). Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cùng các bộ, ngành khác tham gia xây dựng các điều ước, thỏa thuận quốc tế khác trong khuôn khổ ASEAN cũng như ASEAN với đối tác ngoài khối như Nghị định thư thực hiện gói cam kết thứ mười hai về dịch vụ vận tải hàng không trong khuôn khổ Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS), Hiệp định ASEAN về di chuyển thể nhân, Hiệp định Hàng không toàn diện ASEAN - EU, Hiệp định Hợp tác kỹ thuật giữa các nước ASEAN và Trung Quốc, Kế hoạch thực hiện chiến lược hợp nhất về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư của ASEAN…

Vụ Pháp luật quốc tế đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan trong việc thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới quan trọng như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu - EU (EVFTA), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam với Vương quốc Anh và Bắc Ailen (UKVFTA) cũng như đã chủ trì và tham gia xử lý các vụ tranh chấp đầu tư quốc tế trên cơ sở Hiệp định CPTPP; giới thiệu ứng cử viên làm trọng tài viên trong danh sách chỉ định cụ thể theo Hiệp định CPTPP cũng như thành viên Ban Hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm theo Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế của ASEAN; thực hiện rà soát, đánh giá mức độ đáp ứng của pháp luật Việt Nam với quy định của Chương 25 (Hội tụ phương pháp hoạch định chính sách thương mại), Chương 26 (Minh bạch hóa và chống tham nhũng) của Hiệp định CPTPP và kinh nghiệm quốc tế thực thi các Chương này.

Liên quan đến Hiệp định EVFTA, Vụ Pháp luật quốc tế tiếp tục rà soát một số quy định của Hiệp định có tác động đến xây dựng, hoàn thiện pháp luật trong nước, trong đó có các nhóm quy định về sở hữu trí tuệ, lao động, minh bạch hóa, đầu tư... và đang nghiên cứu quy chế chọn cử trọng tài viên theo quy định của Hiệp định để xử lý các vụ việc giải quyết tranh chấp phát sinh giữa hai bên. Đối với Hiệp định UKVFTA và việc Vương quốc Anh gia nhập CPTPP, Vụ Pháp luật quốc tế đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương trong quá trình đàm phán.

Chặng đường 20 năm xây dựng và phát triển của Vụ Pháp luật quốc tế luôn song hành cùng với sự lớn mạnh của Bộ, Ngành Tư pháp cũng như vị thế, vai trò và tầm quan trọng của công tác pháp luật quốc tế của Bộ Tư pháp nói chung và của Vụ Pháp luật quốc tế nói riêng trong công cuộc cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong xu thế hội nhập sâu rộng hơn vào khu vực và thế giới của Việt Nam. Điều này được thể hiện rõ nét qua các công việc, nhiệm vụ được Lãnh đạo Bộ tin tưởng giao phó thời gian qua.

Những đóng góp của Vụ Pháp luật quốc tế trong thực hiện các nhiệm vụ, công tác trọng tâm của Bộ, Ngành Tư pháp cũng như vào quá trình cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế - xã hội đã được các đơn vị trong và ngoài Bộ cũng như đối tác nước ngoài đánh giá cao.

Tuy nhiên, cũng cần phải thẳng thắn thừa nhận rằng, trước những yêu cầu mới của quá trình hội nhập, Vụ Pháp luật quốc tế vẫn cần tiếp tục phấn đấu hơn nữa để khắc phục nhược điểm, hạn chế của mình để đáp ứng được thực tế đòi hỏi cũng như xứng đáng hơn với truyền thống mà các thế hệ cán bộ đi trước đã làm được.

Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp

[1]. Biên niên lịch sử Bộ Tư pháp (2015), tập 1, Nxb. Tư pháp, tr. 208.

[2]. Biên niên lịch sử Bộ Tư pháp (2015), tập 1, Nxb. Tư pháp, tr. 292.

[3]. Quyết định số 335/2003/QĐ-BTP ngày 05/8/2003 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc thành lập Vụ Pháp luật quốc tế thuộc Bộ Tư pháp.

[4]. Trên cơ sở Quyết định số 335/2003/QĐ-BTP ngày 05/8/2003 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc thành lập Vụ Pháp luật quốc tế thuộc Bộ Tư pháp và Quyết định số 348/QĐ-BTP ngày 16/6/2004 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Vụ Pháp luật quốc tế.

[5]. Trên cơ sở Quyết định số 809/QĐ-BTP ngày 16/4/2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Vụ Pháp luật quốc tế; Quyết định số 1178/QĐ-BTP ngày 24/5/2013 ban hành Đề án kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp theo Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp.

[6]. Ví dụ: Đề tài “Nội luật hóa các điều ước quốc tế”, Đề tài “Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến hệ thống pháp luật và tư pháp Việt Nam”, Đề tài “Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế và việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong quá trình hội nhập”.

[7]. Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 385), tháng 7/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Công tác pháp luật quốc tế của Bộ Tư pháp - Thành tựu và yêu cầu đặt ra trong kỷ nguyên mới

Công tác pháp luật quốc tế của Bộ Tư pháp - Thành tựu và yêu cầu đặt ra trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp vừa tham gia xây dựng pháp luật quốc tế, vừa đóng vai trò “cầu nối” giữa pháp luật trong nước với pháp luật quốc tế. Vì vậy, công tác pháp luật quốc tế của Bộ Tư pháp có tác động tích cực đến hội nhập quốc tế và phát triển của đất nước.
Hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp - Những thành tựu đạt được và định hướng trong kỷ nguyên mới

Hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp - Những thành tựu đạt được và định hướng trong kỷ nguyên mới

Nhìn lại chặng đường hơn 35 năm qua, đặc biệt, trong một thập kỷ gần đây, quan hệ hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp đã có bước phát triển mạnh mẽ và hiệu quả.
Xử lý hành vi sử dụng mã độc tống tiền theo pháp luật hình sự - Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Xử lý hành vi sử dụng mã độc tống tiền theo pháp luật hình sự - Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Hiện nay, các tội phạm sử dụng công nghệ cao để thực hiện các hành vi phạm tội diễn ra ngày càng phổ biến. Một trong những công nghệ cao để thực hiện các hành vi phạm tội, nguy hiểm, gây ra thiệt hại lớn cho xã hội được các tội phạm sử dụng nhiều nhất, chính là sử dụng mã độc tống tiền (Ransomware). Vì vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật để kịp thời phòng, chống những tác hại của Ransomware là thực sự cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Bài viết nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật của Hoa Kỳ và Trung Quốc, từ đó, kiến nghị, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Pháp luật về hòa giải thương mại của Việt Nam và Ấn Độ - Góc nhìn so sánh và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Việt Nam và Ấn Độ đều có khung pháp lý điều chỉnh hoạt động hòa giải thương mại, nhưng có sự khác biệt đáng kể về cơ chế vận hành và thực thi. Bài viết sử dụng phương pháp so sánh luật học để phân tích và đối chiếu quy định pháp luật giữa hai quốc gia, đồng thời, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp luật về hòa giải thương mại tại Việt Nam.

Vai trò của Nội các Nhật Bản trong hoạt động lập pháp và giá trị tham khảo cho Việt Nam

Nội các Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong quá trình lập pháp với quyền đề xuất hầu hết các dự thảo luật trình lên Quốc hội. Bài viết nghiên cứu, phân tích vị trí, vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của Nội các Nhật Bản trong hoạt động lập pháp, từ sáng kiến đến soạn thảo, đánh giá và thông qua luật. Đồng thời, so sánh với quy trình lập pháp tại Việt Nam, chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt quan trọng. Từ đó, đề xuất các giá trị mà Việt Nam có thể tham khảo nhằm nâng cao vị trí và vai trò của Chính phủ trong quá trình xây dựng pháp luật.

Hình phạt tiền - Dưới góc nhìn so sánh pháp luật hình sự Việt Nam với Liên bang Úc và kinh nghiệm cho Việt Nam

Hình phạt tiền ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong hệ thống hình phạt của nhiều quốc gia, kể cả Việt Nam và Liên bang Úc, như một biện pháp hiệu quả để xử lý các hành vi phạm tội, đặc biệt là các tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm do pháp nhân thực hiện. Bài viết phân tích quy định pháp luật hình sự về hình phạt tiền của Việt Nam và Liên bang Úc, làm rõ sự khác biệt về đối tượng pháp nhân chịu trách nhiệm, phương pháp xác định mức phạt, các yếu tố Tòa án cân nhắc và cơ chế thi hành; từ đó, rút ra một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo đối với Việt Nam.

Kết đôi dân sự theo pháp luật của Pháp và gợi mở quy chế pháp lý cho cặp đôi không muốn kết hôn tại Việt Nam

Trên thế giới, nhiều quốc gia đã ghi nhận và thiết lập quy định liên quan đến vấn đề chung sống như vợ chồng, bởi đây là hiện tượng khách quan và phổ biến trong xã hội. Bộ luật Dân sự Pháp đã thiết kế chế định kết đôi dân sự để điều chỉnh mối quan hệ giữa các cặp đôi chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn. Bài viết phân tích chế định kết đôi dân sự ở Pháp, thực trạng chung sống như vợ chồng ở Việt Nam và gợi mở về một số thay đổi của chính sách, pháp luật hôn nhân và gia đình tại Việt Nam.
Kiện phái sinh theo pháp luật của Vương quốc Anh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam[1]

Kiện phái sinh theo pháp luật của Vương quốc Anh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam[1]

Kiện phái sinh là một cơ chế pháp lý quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của cổ đông và công ty. Hình thức kiện này đã hình thành từ rất lâu tại Anh và được xây dựng dựa trên nền tảng thông luật. Ở Việt Nam, kiện phái sinh mới chỉ được ghi nhận thông qua các quy định pháp luật trong thời gian gần đây. Bài viết phân tích các quy định pháp lý về hình thức kiện phái sinh tại Vương quốc Anh, đánh giá những ưu điểm, hạn chế của cơ chế này, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện cơ chế kiện phái sinh, phù hợp với tình hình thực tiễn tại Việt Nam.

Xây dựng mô hình Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ tại Việt Nam - Kinh nghiệm từ Nhật Bản và Vương quốc Anh

Bài viết so sánh mô hình Tòa Thượng thẩm sở hữu trí tuệ chuyên sâu Nhật Bản và hệ thống Tòa án sở hữu trí tuệ xét xử linh hoạt ở Anh, từ đó, rút ra khuyến nghị cho Việt Nam, đề xuất thành lập Tòa án chuyên biệt về sở hữu trí tuệ tại các trung tâm kinh tế lớn, kết hợp mô hình xét xử phù hợp để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả.

Thuế carbon và cơ chế điều chỉnh biên giới carbon - Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý khung pháp lý cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada trong thiết kế và thực thi chính sách định giá carbon, đồng thời, chỉ ra những khoảng trống của pháp luật Việt Nam, đặc biệt, về Hệ thống đo lường, giám sát phát thải và Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon. Trên cơ sở đó, đề xuất lộ trình xây dựng luật thuế carbon, tích hợp Hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định, Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon nội địa và quy trình quản lý thuế minh bạch, giúp Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, bảo vệ doanh nghiệp và thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ - Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu về trí tuệ nhân tạo (AI), sự cần thiết ứng dụng AI trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) nhìn từ kinh nghiệm của một số quốc gia, khu vực dẫn đầu trong việc ứng dụng AI vào bảo hộ quyền SHTT như Hoa Kỳ, châu Âu, Trung Quốc… từ đó, nghiên cứu đưa ra một số gợi mở cho việc ứng dụng AI trong việc hoàn thiện pháp luật liên quan đến việc ứng dụng AI vào hoạt động bảo hộ quyền SHTT.

Chuẩn hợp đồng (Quasi contract) - Cơ sở pháp lý và đề xuất áp dụng tại Việt Nam

Bài viết phân tích khái niệm chuẩn hợp đồng (Quasi contract) trong hệ thống pháp luật Common Law và sự tương đồng với một số quy định trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, đồng thời đề xuất việc nghiên cứu lựa chọn có chọn lọc và áp dụng Quasi contract vào hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp và bảo vệ quyền lợi các bên.

Bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo - Nhìn từ thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết phân tích chính sách bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư liên quan đến trí tuệ nhân tạo (AI) ở một số quốc gia trên thế giới, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam về vấn đề này.

Cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả của bên thứ ba tại Hoa Kỳ và kinh nghiệm cho Việt Nam

Bài viết phân tích cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả của bên thứ ba (cơ chế Safe Harbor) trong luật pháp Hoa Kỳ và Việt Nam, từ đó, đưa ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật liên quan đến các trường hợp miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet.

Xây dựng luật thuế các-bon - Kinh nghiệm Singapore và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Thuế các-bon là một công cụ tài chính quan trọng nhằm giảm phát thải khí nhà kính bằng cách định giá lượng khí CO₂ thải ra môi trường. Việc áp dụng thuế này không chỉ giúp kiểm soát ô nhiễm mà còn tạo nguồn thu để đầu tư vào các giải pháp phát triển bền vững. Trong bối cảnh đã có nhiều quốc gia xây dựng, ban hành và áp dụng thuế các-bon, Việt Nam cần cân nhắc xây dựng khung pháp lý phù hợp cho việc áp dụng thuế các-bon trong nước. Singapore là một trong những quốc gia đi đầu ở Đông Nam Á trong xây dựng, áp dụng pháp luật về thuế các-bon với nhiều điểm nổi bật mà Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc, phù hợp với thực tế của Việt nam. Xuất phát từ đó, bài viết làm rõ một số kinh nghiệm nổi bật của Singapore về xây dựng Luật thuế các-bon, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

Theo dõi chúng tôi trên: