Thứ sáu 13/06/2025 09:57
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Xây dựng pháp luật về trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm ở một số quốc gia và khuyến nghị đối với Việt Nam

Trí tuệ nhân tạo (AI) đã và đang cho thấy tiềm năng và khả năng đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, việc làm thế nào để nghiên cứu và áp dụng các hệ thống/ứng dụng AI một cách an toàn, có trách nhiệm, hạn chế tối đa các ảnh hưởng tiêu cực cho con người và cộng đồng vẫn còn đang là một bài toán nan giải. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, thúc đẩy sử dụng AI có trách nhiệm nhằm mang lại một tương lai công bằng, lấy con người làm trung tâm không chỉ nhiệm vụ của Nhà nước, mà còn là trách nhiệm của các nhà phát triển và toàn cộng đồng.

1. Trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm

Trí tuệ nhân tạo (AI), hiểu một cách khái quát, là công nghệ cho phép máy tính và các loại máy móc khác mô phỏng trí thông minh của con người và khả năng giải quyết vấn đề. Việc mô phỏng đó được thực hiện thông qua các thuật toán (algorithm), cơ chế học máy (machine learning) và cơ chế học sâu (deep learning)[1].

Trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm (RAI) không phải là một loại trí tuệ nhân tạo. Theo Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO), RAI là một cách tiếp cận để phát triển và triển khai AI từ cả quan điểm đạo đức và pháp lý. Mục tiêu là sử dụng AI một cách an toàn, đáng tin cậy và có đạo đức[2]. Theo tác giả Ellen Glover trong bài viết What Is Responsible AI? (Thế nào là trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm?) đăng trên trang công nghệ builtin.com, RAI được định nghĩa “… là một tập hợp các biện pháp được sử dụng để bảo đảm AI được phát triển và áp dụng một cách có đạo đức và hợp pháp. Nó liên quan đến việc xem xét các tác động tiềm tàng mà hệ thống AI có thể gây ra đối với người dùng, xã hội và môi trường, thực hiện các bước để giảm thiểu mọi tác hại và ưu tiên tính minh bạch và công bằng khi nói đến cách thức tạo ra và sử dụng AI”[3]. Như vậy, có thể hiểu, RAI là quy trình, biện pháp được đặt ra nhằm bảo đảm việc chế tạo và sử dụng AI phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội, không gây hại cho con người và môi trường xung quanh.

2. Sự cần thiết xây dựng pháp luật về trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm bảo đảm an ninh mạng, an toàn trên môi trường mạng

An ninh mạng là hoạt động bảo vệ máy tính, máy chủ, thiết bị di động, hệ thống điện tử, mạng và dữ liệu khỏi các cuộc tấn công độc hại[4]. An toàn trên môi trường mạng là việc giữ an toàn trực tuyến và bảo vệ bản thân trước những rủi ro tiềm ẩn trên internet. Những rủi ro này bao gồm virus, lừa đảo và bắt nạt trên mạng[5]. Như vậy, có thể hiểu, việc bảo đảm an ninh mạng, an toàn trên mạng là nhằm bảo vệ, giữ an toàn cho các thiết bị kết nối mạng và người sử dụng mạng khỏi các nguy cơ đe dọa đến từ môi trường mạng.

Hiện nay, tình hình bảo đảm an ninh, an toàn trên môi trường mạng đang diễn biến rất phức tạp và đối mặt với nhiều khó khăn. Theo Forbes, có 2.365 cuộc tấn công mạng vào năm 2023 với 343.338.964 nạn nhân. Năm 2023, chứng kiến số vụ vi phạm dữ liệu tăng 72% kể từ năm 2021, giữ kỷ lục mọi thời đại trước đó[6]. Theo thống kê của Ủy ban Thương mại Hoa Kỳ, từ năm 2021 đến năm 2023 đã có tổng cộng 2,7 tỷ USD được trình báo là đã bị chiếm đoạt thông qua lừa đảo qua mạng xã hội[7]. Các hoạt động lừa đảo, tấn công trên môi trường mạng diễn ra ngày càng tinh vi, khó phát hiện và gây thiệt hại lớn. Nguyên nhân của xu hướng này là việc những kẻ tấn công, lừa đảo đã sử dụng công nghệ AI cho các hoạt động vi phạm pháp luật của mình. Ví dụ, các kẻ lừa đảo sử dụng AI để giả giọng nói và hình ảnh (deepfake) của người thân nạn nhân để dụ dỗ nạn nhân chuyển tiền. Một ví dụ khác là việc lợi dụng công nghệ AI để tạo ra một đoạn phim về một sự việc không có thật rồi lan truyền trên mạng để gây tổn hại danh dự, nhân phẩm của người khác. Ngoài ra, không thể không kể đến việc sử dụng AI để thực hiện các cuộc tấn công mạng phức tạp vào các kho dữ liệu cá nhân, tài khoản ngân hàng gây thiệt hại lớn về kinh tế[8].

RAI với nội dung là quy trình, biện pháp được đặt ra nhằm bảo đảm việc chế tạo và sử dụng AI phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội, không gây hại cho con người và môi trường xung quanh, nếu được luật hóa một cách chi tiết, có giá trị bắt buộc một cách phổ quát, thì có thể mang tới những tác động tích cực đáng kể cho công cuộc bảo đảm an ninh, an toàn trên môi trường mạng. Xây dựng pháp luật về RAI chính là việc xây dựng các quy định pháp luật nhằm bảo đảm việc chế tạo và sử dụng AI phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội, không gây hại cho con người và môi trường xung quanh. Việc xây dựng pháp luật về RAI cần thiết để bảo đảm an ninh, an toàn trên môi trường mạng thể hiện qua một số khía cạnh sau:

Thứ nhất, về bảo vệ quyền riêng tư và dữ liệu cá nhân, AI thường dựa vào lượng lớn dữ liệu để huấn luyện và vận hành. Việc này có thể dẫn đến rủi ro về quyền riêng tư nếu dữ liệu cá nhân bị thu thập và sử dụng mà không có sự đồng ý của người dùng[9]. Do đó, pháp luật về AI cần đưa ra các quy định rõ ràng về việc thu thập, xử lý và bảo vệ dữ liệu cá nhân, bảo đảm rằng quyền riêng tư của người dùng được tôn trọng.

Thứ hai, về bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, AI có thể thực hiện các quyết định tự động, nhưng không phải lúc nào cũng rõ ràng về cách mà các quyết định này được đưa ra. Điều này có thể dẫn đến việc thiếu minh bạch và khó khăn trong việc xác định trách nhiệm khi có sự cố xảy ra[10]. Pháp luật về AI cần yêu cầu các hệ thống AI phải minh bạch và có khả năng giải trình, giúp người dùng hiểu rõ cách thức hoạt động và đưa ra quyết định của AI.

Thứ ba, về phòng, chống và ứng phó với các cuộc tấn công mạng, AI có thể được sử dụng trong các cuộc tấn công mạng, chẳng hạn như tấn công từ chối dịch vụ (DDoS), tấn công bằng mã độc (malware) hay tấn công xã hội (social engineering)[11]. Vì vậy, pháp luật về RAI cần có các quy định về việc phát triển và sử dụng AI trong lĩnh vực an ninh mạng, bảo đảm rằng AI được sử dụng một cách có trách nhiệm và không gây hại cho hệ thống mạng.

Thứ tư, về bảo đảm công bằng và không thiên vị, AI có thể phản ánh hoặc thậm chí khuếch đại các định kiến hiện có trong dữ liệu mà nó được huấn luyện. Điều này có thể dẫn đến các quyết định không công bằng hoặc thiên vị, gây hại cho các nhóm yếu thế trong xã hội[12]. Pháp luật về RAI cần có các quy định để bảo đảm rằng AI được phát triển và sử dụng một cách công bằng, không thiên vị và không gây ra sự phân biệt đối xử, ví dụ như là bắt buộc đội ngũ phát triển AI phải có sự đa dạng về chủng tộc và các bước kiểm tra nghiêm ngặt trước khi một sản phẩm AI được đưa ra thị trường.

Thứ năm, về thúc đẩy phát triển bền vững và có trách nhiệm, phát triển AI cần phải đi đôi với việc bảo đảm rằng công nghệ này được sử dụng một cách bền vững và có trách nhiệm. Điều này bao gồm việc đánh giá và giảm thiểu các tác động tiêu cực của AI đối với xã hội và môi trường, như sự lạm dụng AI làm giảm đi khả năng sáng tạo của con người hay phát thải nhà kính gia tăng từ nhu cầu sử dụng năng lượng cho công nghệ AI ngày càng lớn (giả sử AI được hàng tỷ người trên toàn thế giới sử dụng hàng ngày thì tổng lượng khí thải carbon hàng năm có thể chạm tới khoảng 47 triệu tấn carbon dioxide, góp phần làm tăng 0,12% lượng khí thải carbon dioxide toàn cầu)[13]. Do đó, pháp luật về RAI cần có nội dung về khuyến khích và hỗ trợ việc phát triển các giải pháp AI bền vững và ngăn chặn việc lạm dụng công nghệ này.

3. Tình hình xây dựng pháp luật về trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm bảo đảm an ninh, an toàn trên môi trường mạng ở một số quốc gia và khuyến nghị đối với Việt Nam

RAI là một nền tảng quan trọng để mỗi quốc gia, khu vực có thể tận dụng tối đa lợi ích và giới hạn đến mức tối thiểu tác động tiêu cực của AI vào sự phát triển trên mọi lĩnh vực. Điều này đã được các tổ chức quốc tế và nhiều quốc gia nhận thức rõ, dẫn đến sự ra đời của nhiều văn kiện pháp lý về RAI cả ở tầm quốc gia và khu vực trong thời gian gần đây. Những văn kiện này đều nhằm mục đích tạo ra khung pháp lý để điều chỉnh các hoạt động liên quan đến AI, bảo đảm chúng được thực hiện một cách hợp pháp và có đạo đức, giảm thiểu, ngăn chặn những tác động tiêu cực tiềm tàng mà AI có thể gây ra, trong đó có các nguy cơ về an toàn, an ninh trên không gian mạng.

Tại Vương Quốc Anh, mặc dù chưa có đạo luật chính thức điều chỉnh riêng biệt về AI nhưng đã có những định hướng về mặt chính sách cho vấn đề này, thể hiện qua sự kiện Chính phủ Anh ban hành “Sách trắng về trí tuệ nhân tạo” vào ngày 29/3/2023. Văn kiện này đề xuất 05 nguyên tắc cho khung quy định về AI, bao gồm: (i) An toàn, bảo mật, bền vững; (ii) Tính minh bạch và giải thích phù hợp; (iii) Công bằng; (iv) Trách nhiệm giải trình và quản trị; (v) Khả năng cạnh tranh và khắc phục[14]. 05 nguyên tắc này chính là sự cụ thể hóa, chi tiết hóa nội dung của RAI.

Tại châu Âu lục địa, Liên minh châu Âu (EU) đang trong tiến trình để thông qua Đạo luật Trí tuệ nhân tạo, với mục tiêu là nhằm bảo đảm các hệ thống AI (AI Systems) được sử dụng tại EU phải an toàn, tôn trọng các quyền cơ bản của con người và các giá trị của EU. Hiện nay, Hội đồng châu Âu và Nghị viện châu Âu đã đạt được thỏa thuận về dự luật này và nó sẽ sớm được thông qua, có hiệu lực trong tương lai gần[15]. Nội dung đáng chú ý của dự luật này chính là việc phân loại các hệ thống AI dựa trên rủi ro, bao gồm: Rủi ro không thể chấp nhận được (unacceptable risk), rủi ro cao (high risk), rủi ro hạn chế (limited risk), rủi ro tối thiểu (minimal risk). Mỗi loại rủi ro sẽ phải chịu những biện pháp giới hạn, kiểm soát khác nhau, mức độ rủi ro càng cao thì biện pháp giới hạn, kiểm soát càng nghiêm ngặt[16]. Điều này giúp cho các nhà chức trách có thể kiểm soát các nguy cơ, bao gồm cả các nguy cơ đe dọa an ninh, an toàn trên không gian mạng từ các sản phẩm AI một cách tương xứng, phù hợp với đặc tính của từng sản phẩm, bảo đảm vừa kiểm soát nhưng vừa không gây khó khăn cho sự phát triển và sử dụng các công nghệ AI. Trước đó, năm 2018, EU đã thông qua Quy định chung về bảo vệ dữ liệu (GDPR). Mặc dù không được đề cập một cách đích xác trong GDPR nhưng có nhiều điều khoản trong văn bản này có sự liên quan sâu sắc tới AI, đặc biệt là về bảo vệ dữ liệu, quyền riêng tư và ra quyết định tự động. Ví dụ, GDPR yêu cầu các tổ chức phải chịu trách nhiệm về việc xử lý dữ liệu bằng hệ thống AI của mình và bảo đảm rằng các ứng dụng AI xử lý dữ liệu cá nhân được trang bị thuật toán bảo mật để bảo vệ dữ liệu cá nhân. Hơn nữa, các tổ chức phải áp dụng các biện pháp kỹ thuật và tổ chức phù hợp khác phù hợp với tính chất rủi ro do hoạt động xử lý của họ gây ra.

Trung Quốc là quốc gia đầu tiên có một đạo luật điều chỉnh riêng, đích xác về công nghệ AI, có hiệu lực thi hành từ ngày 15/8/2023. Đạo luật này được xây dựng để quản lý AI sáng tạo (Generative AI)[17], trong đó đặt những hạn chế mới cho các công ty cung cấp dịch vụ AI sáng tạo, cả về cả dữ liệu đầu vào và sản phẩm đầu ra. Dữ liệu cung cấp cho ứng dụng AI phải được thu thập một cách hợp pháp, không vi phạm quyền riêng tư, quyền sở hữu trí tuệ. Dữ liệu đầu ra phải bảo đảm tính lành mạnh, chính xác và một số yêu cầu khác[18]. Có thể thấy, đạo luật này sẽ có tác dụng đáng kể trong bảo đảm an ninh, an toàn trên môi trường mạng đối với các hoạt động về AI.

Tại Hoa Kỳ, Đạo luật về trách nhiệm giải trình bằng thuật toán (Algorithmic Accountability Act) đã được đề xuất vào năm 2019 và được giới thiệu lại vào năm 2022. Đạo luật này yêu cầu các công ty tiến hành đánh giá tác động đối với các hệ thống ra quyết định tự động (bao gồm AI), tập trung vào sự thiên vị, quyền riêng tư và tính hiệu quả[19]. Trước đó, Ủy ban Thương mại liên bang (Federal Trade Commission) đã ban hành hướng dẫn về việc sử dụng AI, nhấn mạnh đến sự công bằng, trách nhiệm và minh bạch. Các công ty nên bảo đảm rằng, hệ thống AI không dẫn đến sự phân biệt đối xử và duy trì các biện pháp bảo mật dữ liệu mạnh mẽ[20].

Tại Việt Nam, hiện vẫn chưa có các quy định pháp luật về RAI. Do đó, trong bối cảnh công nghệ AI đang ngày càng được ứng dụng rộng rãi ở nước ta, các nhà làm luật cần nghiêm túc cân nhắc tính cần thiết và tham khảo mô hình các quốc gia khác để từ đó xây dựng được một khung pháp lý về AI phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Theo tác giả, pháp luật cần đưa ra các quy định rõ ràng và chi tiết về quyền riêng tư, tính minh bạch, trách nhiệm giải trình, an ninh mạng, công bằng và phát triển bền vững. Điều này không chỉ giúp bảo vệ người dùng và xã hội trước các rủi ro liên quan đến AI, mà còn thúc đẩy sự phát triển và ứng dụng AI một cách có trách nhiệm và bền vững./.

TS. Nguyễn Hùng & ThS. Vũ Hùng Cường

Trường Đại học Công nghiệp Việt - Hung

Ảnh: internet

[1]. https://www.ibm.com/topics/artificial-intelligence.

[2]. https://www.iso.org/artificial-intelligence/responsible-ai-ethics#toc1.

[3]. Ellen Glover, What Is Responsible AI?, https://builtin.com/artificial-intelligence/what-is-responsible-ai.

[4]. https://www.kaspersky.com/resource-center/definitions/what-is-cyber-security.

[5]. https://www.twinkl.com.vn/teaching-wiki/internet-safety.

[6]. https://www.forbes.com/advisor/education/it-and-tech/cybersecurity-statistics/.

[7].https://www.ftc.gov/news-events/data-visualizations/data-spotlight/2023/10/social-media-golden-goose-scammers.

[8].https://www.forbes.com/sites/forbestechcouncil/2024/03/19/how-ai-driven-cyber-attacks-will-reshape-cyber-protection/#:~:text=AI%2Ddriven%20cyberattacks%20involve%20using,to%20rapid%20intrusions%20or%20destruction.

[9].https://economictimes.indiatimes.com/news/how-to/ai-and-privacy-the-privacy-concerns-surrounding-ai-its-potential-impact-on-personal-data/articleshow/99738234.cms?from=mdr.

[10].https://www.expresscomputer.in/exclusives/ai-and-transparency-importance-of-transparency-and-accountability-in-ai-decision-making-processes/102753/.

[11].https://www.scmagazine.com/perspective/five-ai-based-threats-security-pros-need-to-understand.

[12]. https://www.hp.com/au-en/shop/tech-takes/post/ethical-ai-use.

[13]. https://www.nature.com/articles/d44151-024-00024-8.

[14].https://www.mayerbrown.com/en/perspectives-events/publications/2023/07/uks-approach-to-regulating-the-use-of-artificial-intelligence.

[15].https://www.consilium.europa.eu/en/press/press-releases/2023/12/09/artificial-intelligence-act-council-and-parliament-strike-a-deal-on-the-first-worldwide-rules-for-ai/.

[16]. https://digital-strategy.ec.europa.eu/en/policies/regulatory-framework-ai.

[17]. Là loại AI có khả năng tạo ra nhiều dạng dữ liệu như hình ảnh, văn bản, âm thanh… ví dụ, Chat GPT hay phần mềm Midjourney, https://generativeai.net/.

[18].Huw Roberts, The future of AI policy in China, https://www.eastasiaforum.org/2023/09/27/the-future-of-ai-policy-in-china/#:~:text=On%2015%20August%202023%2C%20a,that%20specifically%20targets%20generative%20AI.

[19]. https://www.congress.gov/bill/117th-congress/senate-bill/3572.

[20].https://www.klgates.com/FTC-Issues-New-Guidance-Warning-That-Bias-In-Artificial-Intelligence-Could-Create-Potential-Liability-For-Enforcement-Actions-4-21-2021.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 408), tháng 7/2024)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Xử lý hành vi sử dụng mã độc tống tiền theo pháp luật hình sự - Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Xử lý hành vi sử dụng mã độc tống tiền theo pháp luật hình sự - Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Hiện nay, các tội phạm sử dụng công nghệ cao để thực hiện các hành vi phạm tội diễn ra ngày càng phổ biến. Một trong những công nghệ cao để thực hiện các hành vi phạm tội, nguy hiểm, gây ra thiệt hại lớn cho xã hội được các tội phạm sử dụng nhiều nhất, chính là sử dụng mã độc tống tiền (Ransomware). Vì vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật để kịp thời phòng, chống những tác hại của Ransomware là thực sự cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Bài viết nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật của Hoa Kỳ và Trung Quốc, từ đó, kiến nghị, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Pháp luật về hòa giải thương mại của Việt Nam và Ấn Độ - Góc nhìn so sánh và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Việt Nam và Ấn Độ đều có khung pháp lý điều chỉnh hoạt động hòa giải thương mại, nhưng có sự khác biệt đáng kể về cơ chế vận hành và thực thi. Bài viết sử dụng phương pháp so sánh luật học để phân tích và đối chiếu quy định pháp luật giữa hai quốc gia, đồng thời, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp luật về hòa giải thương mại tại Việt Nam.

Vai trò của Nội các Nhật Bản trong hoạt động lập pháp và giá trị tham khảo cho Việt Nam

Nội các Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong quá trình lập pháp với quyền đề xuất hầu hết các dự thảo luật trình lên Quốc hội. Bài viết nghiên cứu, phân tích vị trí, vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của Nội các Nhật Bản trong hoạt động lập pháp, từ sáng kiến đến soạn thảo, đánh giá và thông qua luật. Đồng thời, so sánh với quy trình lập pháp tại Việt Nam, chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt quan trọng. Từ đó, đề xuất các giá trị mà Việt Nam có thể tham khảo nhằm nâng cao vị trí và vai trò của Chính phủ trong quá trình xây dựng pháp luật.

Hình phạt tiền - Dưới góc nhìn so sánh pháp luật hình sự Việt Nam với Liên bang Úc và kinh nghiệm cho Việt Nam

Hình phạt tiền ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong hệ thống hình phạt của nhiều quốc gia, kể cả Việt Nam và Liên bang Úc, như một biện pháp hiệu quả để xử lý các hành vi phạm tội, đặc biệt là các tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm do pháp nhân thực hiện. Bài viết phân tích quy định pháp luật hình sự về hình phạt tiền của Việt Nam và Liên bang Úc, làm rõ sự khác biệt về đối tượng pháp nhân chịu trách nhiệm, phương pháp xác định mức phạt, các yếu tố Tòa án cân nhắc và cơ chế thi hành; từ đó, rút ra một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo đối với Việt Nam.

Kết đôi dân sự theo pháp luật của Pháp và gợi mở quy chế pháp lý cho cặp đôi không muốn kết hôn tại Việt Nam

Trên thế giới, nhiều quốc gia đã ghi nhận và thiết lập quy định liên quan đến vấn đề chung sống như vợ chồng, bởi đây là hiện tượng khách quan và phổ biến trong xã hội. Bộ luật Dân sự Pháp đã thiết kế chế định kết đôi dân sự để điều chỉnh mối quan hệ giữa các cặp đôi chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn. Bài viết phân tích chế định kết đôi dân sự ở Pháp, thực trạng chung sống như vợ chồng ở Việt Nam và gợi mở về một số thay đổi của chính sách, pháp luật hôn nhân và gia đình tại Việt Nam.
Kiện phái sinh theo pháp luật của Vương quốc Anh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam[1]

Kiện phái sinh theo pháp luật của Vương quốc Anh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam[1]

Kiện phái sinh là một cơ chế pháp lý quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của cổ đông và công ty. Hình thức kiện này đã hình thành từ rất lâu tại Anh và được xây dựng dựa trên nền tảng thông luật. Ở Việt Nam, kiện phái sinh mới chỉ được ghi nhận thông qua các quy định pháp luật trong thời gian gần đây. Bài viết phân tích các quy định pháp lý về hình thức kiện phái sinh tại Vương quốc Anh, đánh giá những ưu điểm, hạn chế của cơ chế này, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện cơ chế kiện phái sinh, phù hợp với tình hình thực tiễn tại Việt Nam.

Xây dựng mô hình Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ tại Việt Nam - Kinh nghiệm từ Nhật Bản và Vương quốc Anh

Bài viết so sánh mô hình Tòa Thượng thẩm sở hữu trí tuệ chuyên sâu Nhật Bản và hệ thống Tòa án sở hữu trí tuệ xét xử linh hoạt ở Anh, từ đó, rút ra khuyến nghị cho Việt Nam, đề xuất thành lập Tòa án chuyên biệt về sở hữu trí tuệ tại các trung tâm kinh tế lớn, kết hợp mô hình xét xử phù hợp để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả.

Thuế carbon và cơ chế điều chỉnh biên giới carbon - Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý khung pháp lý cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada trong thiết kế và thực thi chính sách định giá carbon, đồng thời, chỉ ra những khoảng trống của pháp luật Việt Nam, đặc biệt, về Hệ thống đo lường, giám sát phát thải và Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon. Trên cơ sở đó, đề xuất lộ trình xây dựng luật thuế carbon, tích hợp Hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định, Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon nội địa và quy trình quản lý thuế minh bạch, giúp Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, bảo vệ doanh nghiệp và thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ - Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu về trí tuệ nhân tạo (AI), sự cần thiết ứng dụng AI trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) nhìn từ kinh nghiệm của một số quốc gia, khu vực dẫn đầu trong việc ứng dụng AI vào bảo hộ quyền SHTT như Hoa Kỳ, châu Âu, Trung Quốc… từ đó, nghiên cứu đưa ra một số gợi mở cho việc ứng dụng AI trong việc hoàn thiện pháp luật liên quan đến việc ứng dụng AI vào hoạt động bảo hộ quyền SHTT.

Chuẩn hợp đồng (Quasi contract) - Cơ sở pháp lý và đề xuất áp dụng tại Việt Nam

Bài viết phân tích khái niệm chuẩn hợp đồng (Quasi contract) trong hệ thống pháp luật Common Law và sự tương đồng với một số quy định trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, đồng thời đề xuất việc nghiên cứu lựa chọn có chọn lọc và áp dụng Quasi contract vào hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp và bảo vệ quyền lợi các bên.

Bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo - Nhìn từ thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết phân tích chính sách bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư liên quan đến trí tuệ nhân tạo (AI) ở một số quốc gia trên thế giới, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam về vấn đề này.

Cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả của bên thứ ba tại Hoa Kỳ và kinh nghiệm cho Việt Nam

Bài viết phân tích cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả của bên thứ ba (cơ chế Safe Harbor) trong luật pháp Hoa Kỳ và Việt Nam, từ đó, đưa ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật liên quan đến các trường hợp miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet.

Xây dựng luật thuế các-bon - Kinh nghiệm Singapore và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Thuế các-bon là một công cụ tài chính quan trọng nhằm giảm phát thải khí nhà kính bằng cách định giá lượng khí CO₂ thải ra môi trường. Việc áp dụng thuế này không chỉ giúp kiểm soát ô nhiễm mà còn tạo nguồn thu để đầu tư vào các giải pháp phát triển bền vững. Trong bối cảnh đã có nhiều quốc gia xây dựng, ban hành và áp dụng thuế các-bon, Việt Nam cần cân nhắc xây dựng khung pháp lý phù hợp cho việc áp dụng thuế các-bon trong nước. Singapore là một trong những quốc gia đi đầu ở Đông Nam Á trong xây dựng, áp dụng pháp luật về thuế các-bon với nhiều điểm nổi bật mà Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc, phù hợp với thực tế của Việt nam. Xuất phát từ đó, bài viết làm rõ một số kinh nghiệm nổi bật của Singapore về xây dựng Luật thuế các-bon, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

Xác định tình trạng việc làm của người làm việc thông qua nền tảng công nghệ theo Chỉ thị (EU) 2024/2831 và khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích quy định về xác định tình trạng việc làm của người làm việc thông qua nền tảng công nghệ theo Chỉ thị (EU) 2024/2831 ngày 23/10/2024 của Nghị viện và Hội đồng châu Âu về việc cải thiện điều kiện làm việc đối với công việc nền tảng (Chỉ thị (EU) 2024/2831) và thực trạng xác định tình trạng lao động tại Việt Nam hiện nay, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

Miễn trừ thông báo tập trung kinh tế - Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Tập trung kinh tế là quá trình giảm số lượng doanh nghiệp độc lập trên thị trường thông qua sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh nhằm mở rộng quy mô và nâng cao khả năng cạnh tranh. Hành vi này giúp tối ưu nguồn lực nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ hạn chế cạnh tranh, dẫn đến độc quyền, ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường và người tiêu dùng. Pháp luật cạnh tranh của Mỹ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản kiểm soát tập trung kinh tế qua quy định về thông báo giao dịch và các trường hợp miễn trừ thông báo đối với hành vi tập trung kinh tế ít tác động đến thị trường. Từ kinh nghiệm của những quốc gia này về các trường hợp được miễn thông báo tập trung kinh tế, nghiên cứu đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm