Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, tài sản chung bao gồm: Sở hữu chung cộng đồng; sở hữu chung của các thành viên gia đình; sở hữu chung vợ chồng; sở hữu chung trong nhà chung cư; sở hữu chung hỗn hợp. Bộ luật này cũng quy định quản lý, định đoạt, phân chia và chấm dứt sở hữu chung.
Luật Thi hành án dân sự năm 2014 cũng đã quy định trình tự, thủ tục kê biên xử lý tài sản chung để thi hành án[2] trước khi xử lý tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung với người khác, để thi hành án. Trước hết, phải xác định được phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung với người khác. Muốn vậy, phải khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định, mà không phân biệt loại sở hữu chung theo điều luật này quy định.
Bên cạnh đó, điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ, quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014 (Nghị định số 62/2015/NĐ-CP) quy định: (i) Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung của vợ, chồng thì chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết; (ii) Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình thì chấp hành viên xác định phần sở hữu, sử dụng theo số lượng thành viên của hộ gia đình tại thời điểm xác lập quyền sở hữu tài sản, thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất. Chấp hành viên thông báo kết quả xác định phần sở hữu, sử dụng cho các thành viên trong hộ gia đình biết; (iii) Trường hợp vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình không đồng ý với việc xác định của chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ. Hết thời hạn này mà không có người khởi kiện thì chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản và trả lại cho vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của họ.
Vấn đề đặt ra là khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự năm 2014 quy định tài sản chung thì phải khởi kiện ra Tòa án để phân chia, mà không phân biệt tài sản chung với ai. Sau khi có kết quả giải quyết của Tòa án, chấp hành viên xử lý tài sản theo quyết định của Tòa án. Còn điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP áp dụng đối với tài sản chung vợ, chồng hoặc tài sản chung của hộ gia đình. Chấp hành viên có quyền phân chia phần cho vợ, chồng hoặc các thành viên trong hộ gia đình theo quy định. Mặc dù họ không đồng ý với việc phân chia của chấp hành viên, nhưng quá thời hạn quy định họ không khởi kiện yêu cầu Tòa án phân chia, chấp hành viên vẫn tiến hành cưỡng chế, kê biên, xử lý tài sản để thi hành án.
Thực tiễn cho thấy, khi chấp hành viên áp dụng điểm c khoản 2 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để cưỡng chế, kê biên xử lý tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung vợ, chồng, nhưng bị khiếu nại cho rằng chấp hành viên không áp dụng khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự năm 2014 để xử lý tài sản là xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Còn khi chấp hành viên áp dụng khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định phần sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung của vợ, chồng, thì Tòa án cho rằng chấp hành viên phải xác định phần sở hữu và xử lý theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, nên chấp hành viên không có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần sở hữu.
Trong quá trình giải quyết những “vướng mắc” ở trên, còn có những ý kiến khác nhau, chưa thống nhất. Có ý kiến cho rằng, để bảo vệ quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu theo Bộ luật Dân sự, chấp hành viên phải áp dụng khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự năm 2014 để khởi kiện yêu cầu Tòa án phân chia phần sở hữu của các đồng sở hữu. Sau đó, căn cứ vào quyết định của Tòa án xử lý tài sản của người phải thi hành án, để thi hành án là đúng pháp luật.
Ý kiến khác cho rằng điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP đã hướng dẫn cụ thể, nên chấp hành viên có quyền phân chia phần cho vợ, chồng hoặc các thành viên trong hộ gia đình và thông báo cho họ biết theo quy định. Nếu họ không đồng ý với việc phân chia của chấp hành viên, nhưng quá thời hạn quy định họ không khởi kiện yêu cầu Tòa án phân chia, thì chấp hành viên vẫn tiến hành cưỡng chế, kê biên, xử lý tài sản để thi hành án là đúng quy định, không cần khởi kiện kéo dài thời gian thi hành án. Nếu họ khiếu nại, tố cáo thì giải quyết việc khiếu nại, tố cáo theo pháp luật quy định.
Thực tế có những vụ việc như nêu ở trên đã kéo dài nhiều năm, nhưng đến nay vẫn chưa có văn bản của cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn xử lý, dẫn đến án bị tồn đọng, kéo dài gây khó khăn cho các cơ quan thi hành án dân sự. Vậy khi thực thi nhiệm vụ của mình, chấp hành viên áp dụng khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự năm 2014 hay điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để kê biên tài sản của người phải thi hành án là tài sản chung vợ, chồng hoặc tài sản của hộ gia đình?
Theo quan điểm của chúng tôi thì dù ý kiến nào đi chăng nữa, cũng phải có căn cứ, đúng pháp luật mới chấp nhận được. Ai cũng biết, công tác thi hành án dân sự là một nhiệm vụ rất khó khăn, phức tạp và nhạy cảm. Bên cạnh đó, pháp luật về thi hành án dân sự quy định chưa cụ thể, rõ ràng, khó áp dụng, còn “vênh” với các ngành luật khác, dễ dẫn đến “xung đột” pháp luật. Những người làm công tác thi hành án dân sự đều hiểu Luật Thi hành án dân sự là luật hình thức, phạm vi điều chỉnh Luật này được quy định tại Điều 1. Khi xử lý tài sản của người phải thi hành án cần áp dụng luật nội dung tương ứng với từng loại tài sản để thi hành án.
Trở lại vấn đề đã nêu, phải căn cứ vào quy định của pháp luật để làm rõ áp dụng điều luật nào xử lý tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung vợ, chồng hoặc hộ gia đình, để thi hành án, chấp hành viên nên áp dụng điều luật nào?. Cùng một vấn đề, nhưng khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự năm 2014 quy định cách xử lý khác với điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP.
Khoản 2 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định: “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn”. Như vậy, Luật Thi hành án dân sự năm 2014 là văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn Nghị định số 62/2015/NĐ-CP. Do vậy, chấp hành viên áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự năm 2014 để xử lý tài sản của người phải thi hành án để thi hành án là có căn cứ, đúng pháp luật. Ngoài điều luật này ra, nghiên cứu hệ thống pháp luật Việt Nam, chưa có bất cứ điều luật nào quy định chấp hành viên phải xác định phần sở hữu của các đồng sở hữu trong khối tài sản chung vợ, chồng hoặc hộ gia đình với người phải thi hành án. Bởi vậy, việc xác định này không có giá trị pháp lý. Trong khi đó, khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự năm 2014 quy định: “... chấp hành viên yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự...”. Một trong những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là: “Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự” (khoản 12 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
Điều 187 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước3, thì chấp hành viên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định phần sở hữu tài sản của người phải thi hành án và các đồng sở hữu tài sản trong khối tài sản chung vợ, chồng hoặc hộ gia đình để thi hành án nhằm đảm bảo việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án và bảo vệ quyền sở hữu tài sản của các đồng sở hữu khác, nhưng Tòa án cho rằng chấp hành viên không có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần sở hữu? Nhận định này của Tòa án là trái pháp luật, cần phải được cơ quan có thẩm quyền bãi bỏ.
Như phân tích trên, chúng tôi đồng tình với việc chấp hành viên áp dụng khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự năm 2014 để kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung vợ, chồng hoặc hộ gia đình để thi hành án, là có căn cứ, đúng pháp luật. Đồng thời, để việc áp dụng pháp luật được chính thống, hiểu và áp dụng thống nhất, hạn chế việc khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự. Giảm bớt án tồn đọng kéo dài, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan thi hành án dân sự hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Rất mong cơ quan có thẩm quyền sớm có văn bản hướng dẫn thi hành hai điều luật nói trên.
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum
[1]. Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật Thi hành án dân sự năm 2014.
[2]. Xem: Khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự năm 2014.
[3]. Xem Điều 187 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.