Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) hai thành viên trở lên được ra đời vào năm 1982 tại nước Đức. Tại Việt Nam, công ty TNHH được thừa nhận ở Luật Công ty năm 1990, Luật Doanh nghiệp năm 1999, năm 2005, năm 2014 và năm 2020. Công ty TNHH hai thành viên trở lên là doanh nghiệp có từ 02 đến 50 thành viên là tổ chức, cá nhân. Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp, trừ trường hợp quy theo pháp luật. Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định của pháp luật. Công ty TNHH hai thành viên trở lên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp”[1]. So với các loại hình kinh doanh khác như công ty hợp danh, công ty cổ phần do doanh nhân tạo ra và được pháp luật ghi nhận, thì mô hình công ty TNHH lại là sản phẩm của lập pháp. Đây cũng là mô hình có số lượng được lựa chọn thành lập nhiều nhất ở Việt Nam hiện nay[2].
1. Góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
Việc bảo vệ quyền lợi cho các thành viên khi góp vốn vào công ty là một trong những nguyên tắc bắt buộc ở công ty TNHH hai thành viên trở lên. Bởi lẽ, vấn đề này liên quan đến lợi ích trực tiếp cho các thành viên, đặc biệt là các thành viên góp ít vốn từ khi được xác lập tư cách thành viên. Khác với loại hình công ty khác, việc góp vốn trong công ty TNHH hai thành viên trở lên là vốn điều lệ của công ty là “số vốn thực”, việc hoàn thành nghĩa vụ góp vốn được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định.
Khi thành lập công ty TNHH, các thành viên phải thực hiện nghĩa vụ góp vốn tại thời điểm thành lập công ty bằng các loại tài sản: Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam[3]. Thành viên phải góp vốn cho công ty đủ và đúng loại tài sản đã cam kết khi đăng ký thành lập doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, không kể thời gian vận chuyển, nhập khẩu tài sản góp vốn, thực hiện thủ tục hành chính để chuyển quyền sở hữu tài sản[4]. Thành viên công ty có thể góp vốn một lần hoặc nhiều lần, nhưng phải góp vốn đúng như tiến độ cam kết. Luật Doanh nghiệp quy định chặt chẽ về thời gian góp vốn theo cam kết tại thời điểm công ty mới được thành lập nhằm đảm bảo tại thời điểm khởi đầu công ty sẽ được vận hành trên một nguồn vốn thực tế được xác định cụ thể, tránh chỉ ghi trên giấy tờ nhưng tài sản thực tế lại không cao dẫn đến rủi ro cho bên thứ ba trong quan hệ kinh doanh với công ty. Tại thời điểm góp đủ phần vốn góp, công ty phải cấp giấy chứng nhận phần vốn góp cho thành viên tương ứng với giá trị phần vốn đã góp[5].
Ngoài ra, công ty TNHH phải lập sổ đăng ký thành viên ngay sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp[6]. Đây là một tài liệu pháp lý quan trọng chứng minh tư cách thành viên công ty TNHH từ hai thành viên trở lên. Có thể nói, việc góp vốn vào công ty TNHH ngoài việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty, bao gồm góp vốn để thành lập công ty hoặc góp thêm vốn điều lệ của công ty đã được thành lập có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định khả năng trả nợ cho bên thứ ba. Từ việc góp vốn này sẽ là cơ sở xác định quyền và nghĩa vụ cho thành viên công ty.
2. Mua lại phần vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
Mua lại phần vốn góp được xem là hình thức làm giảm vốn điều lệ của công ty TNHH hai thành viên. Khác so với hình thức chuyển nhượng phần vốn góp thì hình thức mua lại phần vốn góp được thực hiện bởi một bên là thành viên công ty và một bên là công ty. Khi thành viên yêu cầu công ty mua lại phần vốn thực góp (đã góp) vào công ty, Điều 51 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định như sau: “Thành viên có quyền yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp của mình nếu thành viên đó đã bỏ phiếu không tán thành đối với nghị quyết, quyết định của Hội đồng thành viên về vấn đề sau đây: (a) Sửa đổi, bổ sung các nội dung trong Điều lệ công ty liên quan đến quyền và nghĩa vụ của thành viên, Hội đồng thành viên; (b) Tổ chức lại công ty; (c) Trường hợp khác theo quy định tại Điều lệ công ty”. Quy định của Điều luật cho thấy một số nội dung chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, các trường hợp yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp
Việc mua lại phần vốn góp trong công ty TNHH hai thành viên trở lên khi thực hiện phải đáp ứng những quy trình nhất định, việc mua lại phần vốn góp chỉ được thực hiện theo các điều kiện sau:
Một là: Thành viên đó đã bỏ phiếu không tán thành đối với nghị quyết, quyết định của Hội đồng thành viên về vấn đề sửa đổi, bổ sung các nội dung trong Điều lệ công ty liên quan đến quyền và nghĩa vụ của thành viên, Hội đồng thành viên[7].
Việc yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp, về bản chất là việc bảo vệ quyền của các thành viên thiểu số khi họ gia nhập công ty TNHH hai thành viên trở lên, khi họ và các thành viên trong công ty xảy ra những bất đồng, mâu thuẫn, không tìm ra được tiếng nói chung, đặc biệt là liên quan tới những vấn đề rất cơ bản của họ. Vì vậy, pháp luật tạo điều kiện cho họ có quyền rút vốn về bằng cách yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp của mình. Luật Doanh nghiệp không quy định thế nào là thành viên thiểu số, mà chỉ quy định cho thành viên, nhóm thành viên sở hữu từ 10% số vốn điều lệ trở lên hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn do Điều lệ công ty quy định và trường hợp công ty có một thành viên sở hữu trên 90% vốn điều lệ thì nhóm còn lại được hiểu là nhóm thành viên thiểu số. Khi nhóm thành viên thiểu số này tham dự họp Hội đồng thành viên về việc sửa đổi, bổ sung các nội dung trong Điều lệ công ty liên quan đến quyền và nghĩa vụ của thành viên. Tại cuộc họp hội đồng thành viên, tiếng nói của họ không có trọng lượng, hoặc khi biểu quyết thông qua một vấn đề nào đó thì ý kiến của họ lại trái ngược với ý kiến của đa số thành viên trong công ty bởi lẽ họ có số phiếu biểu quyết tương ứng với phần vốn góp[8].
Hai là: Khi Hội đồng thành viên thông qua quyết định tổ chức lại công ty[9].
Luật Doanh nghiệp năm 2020 khi quy định về vấn đề này cũng giống như Luật các nước Mỹ, Đức, Nga… về việc thành viên công ty có quyền yêu cầu công ty mua lại phần vốn của họ nếu họ không tán thành với nghị quyết của Hội đồng thành viên về việc tổ chức lại công ty (như chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi công ty). Tổ chức lại công ty là hình thức là tái cấu trúc lại doanh nghiệp, sao cho phù hợp hơn với mục tiêu doanh nghiệp hướng tới, đồng thời để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn hoặc phát triển hơn, nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội. Tuy nhiên, khi tổ chức lại công ty cũng ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của các thành viên công ty, làm thay đổi loại hình. Với nguyên tắc có phiếu biểu quyết tương ứng với phần vốn góp, thì ý kiến của thành viên thiểu số sẽ không được chấp thuận, lắng nghe, đồng tình, nên việc họ ở lại công ty là điều rất khó vì thành viên sở hữu lượng cổ phần hay phần vốn góp càng lớn, thì quyền kiểm soát công ty của họ cũng lớn tương ứng, nên các thành viên thiểu số phải tìm cách rút vốn về bằng hình thức yêu cầu công ty mua lại.
Ba là: Trường hợp khác theo quy định tại Điều lệ công ty[10].
Ngoài các trường hợp được quy định trên, trong các trường hợp sau thì thành viên công ty cũng có quyền yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp: Phần vốn góp của thành viên được công ty mua lại hoặc chuyển nhượng theo quy định tại Điều 51 và Điều 52 Luật Doanh nghiệp trong các trường hợp:
(i) Người thừa kế không muốn trở thành thành viên dù dưới hình thức thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật;
(ii) Người được tặng cho nếu không thuộc đối tượng quy định là có huyết thống trong phạm vi ba đời nên không được Hội đồng thành viên chấp thuận trong trường hợp này họ sẽ yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp. Đây chính là ưu điểm của mô hình công ty đối nhân nhằm phòng ngừa người ngoài gia nhập vào công ty, nên phải được sự đồng ý của Hội đồng thành viên là cơ quan có thẩm quyền cao nhất trong công ty. Sự quy định này nhằm đảm bảo được tính “đóng” của công ty, đồng thời cũng đảm bảo quyền sở hữu của chủ sở hữu đối với tài sản của mình. Trong trường hợp thành viên muốn tặng cho một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình[11] nếu người được tặng cho không muốn trở thành thành viên hoặc không đủ điều kiện là thành viên thì họ vẫn được nhận lại phần tài sản được tặng cho đó thông qua việc yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp đó;
(iii) Thành viên công ty là tổ chức, mà tổ chức đó bị giải thể hoặc phá sản. Khi thành viên là tổ chức góp vốn vào công ty, thì chính phần vốn góp đó cũng được yêu cầu công ty mua lại. Việc này tạo điều kiện cho tổ chức đó có tài sản để thuận lợi hơn khi tiến hành thủ tục giải thể hoặc phá sản.
Như vậy, ngoài 03 trường hợp trên, thì từ Luật Doanh nghiệp năm 2005 đến Luật Doanh nghiệp năm 2020 chưa có quy định cụ thể về trường hợp công ty TNHH mua lại tự nguyện từ một hoặc một số thành viên theo tỷ lệ vốn góp của họ. Việc góp vốn vào công ty là tự nguyện, công ty có thể thỏa thuận với thành viên khi góp vốn vào công ty là công ty tự nguyện mua lại trong một số trường hợp theo thỏa thuận với thành viên, tuy nhiên, thỏa thuận này không có cơ sở pháp lý hoàn toàn rõ ràng theo pháp luật hiện hành.
Thứ hai, thủ tục yêu cầu công ty mua lại
Thành viên yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp phải gửi yêu cầu của mình tới công ty bằng văn bản trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thông qua nghị quyết, quyết định của công ty về: (i) Sửa đổi, bổ sung các nội dung trong Điều lệ công ty liên quan đến quyền và nghĩa vụ của thành viên, Hội đồng thành viên; (ii) Tổ chức lại công ty; (iii) Trường hợp khác theo quy định tại Điều lệ công ty[12].
Là loại hình công ty đối vốn nên việc quy định về thủ tục mua lại phần vốn góp trong công ty TNHH hai thành viên trở lên theo pháp luật Việt Nam cũng giống như quy định của Luật Công ty ở Mỹ, Đức... là trước khi biểu quyết được tiến hành, cổ đông phải thông báo bằng văn bản đến công ty về ý định bán cổ phần lại cho công ty nếu như giao dịch tổ chức lại có hiệu lực và thể hiện quan điểm không ủng hộ giao dịch tổ chức lại. Để tránh rủi ro cho thành viên, khi rơi vào tình trạng “không thể ở lại công ty được” nên việc xác định ngày thông qua nghị quyết, quyết định của Hội đồng thành viên cần xác định cụ thể. Mặt khác, cũng cần phải lưu ý cuộc họp Hội đồng thành viên lúc đó đã hợp lệ hay chưa có tuân thủ triệt để các quy trình về triệu tập, điều kiện, thể thức tiến hành và quyết định của Hội đồng thành viên, sao cho hợp pháp tránh kết quả sau này có thể bị khiếu nại, kiện tụng dẫn tới bị hủy kết quả do vi phạm về hình thức và quy trình của cuộc họp Hội đồng thành viên.
Thứ ba, xác định giá mua lại phần vốn góp
Theo yêu cầu của pháp luật, khi một thành viên công ty yêu cầu mua lại phần vốn góp, thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của thành viên, công ty phải mua lại phần vốn góp của thành viên đó. Đây là quy định mang tính bắt buộc. Tuy nhiên, khi công ty mua lại thì việc xác định giá mua được Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định[13]: (i) Tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên trên cơ sở thỏa thuận về giá; (ii) Nếu các bên không tự thỏa thuận được thì xác định theo giá của thị trường; (iii) Trong trường hợp các bên không xác định rõ giá thị trường thì sẽ áp dụng theo Điều lệ của công ty.
Việc xác định giá mua lại phần vốn góp từ Luật Doanh nghiệp năm 2005 đến nay vẫn không có gì thay đổi, tuy nhiên thực tế tồn tại một số bất cập sau:
- Với các xách định mua theo giá thoả thuận, sẽ có sự “bất đồng” giữa giá mua và giá bán.
- Áp dụng cách thức thứ hai theo giá thị trường, nhưng Luật không có quy định về cách thức xác định cụ thể, thời gian thực hiện mua là bao lâu?
- Áp dụng theo Điều lệ của công ty, nhưng nếu Điều lệ của công ty thay đổi thì điều này sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của các thành viên. Vậy việc bảo vệ cho các thành viên thiểu số lúc này sẽ được đảm bảo ra sao?
- Trường hợp công ty không thanh toán phần vốn góp được yêu cầu mua lại thì thành viên đó có quyền tự do chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho thành viên khác hoặc người không phải là thành viên công ty. Vấn đề đặt ra, trong trường hợp này luật quy định thành viên có quyền tự do chuyển nhượng. Vậy thành viên có quyền đưa ra mức giá cao hơn so với mức giá yêu cầu công ty mua lại hay không? Việc tự do chào bán này được thực hiện trong vòng bao lâu? Nếu trong trường hợp các thành viên còn lại hay thành viên bên ngoài không có nhu cầu mua, hoặc mua không hết thì quyền lợi của thành viên sẽ được đảm bảo như thế nào? Vì vậy, theo quan điểm của tác giả, việc áp dụng theo giá thoả thuận một mặt đòi hỏi sự thiện trí giữa các bên, mặt khác cũng đòi hỏi trách nhiệm của công ty. Do việc yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp là nghĩa vụ bắt buộc, nên công ty phải xác định tạo điều kiện mua lại phần vốn góp đó cho thành viên theo các tiêu chí mà luật đã quy định.
Để xác định rõ giá thị trường tại thời điểm các bên thực hiện mua lại phần vốn góp, thì Luật Doanh nghiệp nên giới hạn một khoảng thời gian là bao lâu? như quy định ở công ty cổ phần là trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu[14], đồng thời mời tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá.
Điều lệ công ty được coi là giải pháp cuối cùng nếu trong trường hợp không áp dụng được 02 cách thức trên nên đòi hỏi điều lệ công ty phải thực sự là “giải pháp tối ưu” khi áp dụng vấn đề này. Nhằm hạn chế việc thành viên sẽ bán cho người ngoài công ty, sau khi công ty không có mua được. Điều này sẽ tạo điều kiện cho người ngoài xâm nhập vào công ty gây rủi ro cho công ty.
Trong trường hợp khi công ty không thanh toán được phần vốn góp yêu cầu công ty mua lại thì người chào bán có quyền chào bán phần vốn góp đó ra ngoài cũng cần xem xét: Điều kiện, giá bán sao cho hợp lý để người ngoài có thể mua được luôn, tránh tình trạng đến người ngoài cũng không mua được nữa thì thành viên công ty lại phải chờ đợi công ty cân đối khả năng tài chính rồi mới mua được.
Thứ tư, điều kiện mua lại phần vốn góp
Việc yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp, một mặt bảo vệ quyền lợi của thành viên thiểu số bằng cách cho họ được quyền rút vốn về vì khi có mâu thuẫn nên việc ở lại công ty đôi khi không có lợi cho họ. Nhưng điều này không phải là cơ chế khuyến khích các thành viên tận dụng cơ hội để rút vốn, rời khỏi công ty, đặc biệt trong trường hợp công ty gặp khó khăn về tài chính. Chính vì vậy, pháp luật đặt ra điều kiện “việc thanh toán chỉ được thực hiện nếu sau khi thanh toán đủ phần vốn góp được mua lại, công ty vẫn thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác”[15]. Việc mua lại phần vốn góp theo yêu cầu của thành viên là một trong những hình thức làm giảm vốn điều lệ của công ty. Để vận hành công việc sản xuất, các dự án kinh doanh của mình, công ty phải có nguồn vốn đủ lớn, đảm bảo hoạt động thường xuyên, liên tục trên thị trường, đồng thời còn phải đảm bảo sự cam kết trách nhiệm bằng tài sản của mình đối với các chủ nợ. Do đó, việc công ty bắt buộc phải mua lại phần vốn của thành viên cũng chỉ được áp dụng khi và chỉ khi công ty vẫn thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác.
Thứ năm, hậu quả pháp lý của việc yêu cầu mua lại phần vốn góp
Thành viên công ty yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp nếu thành công điều này dẫn đến: (i) Vốn điều lệ của công ty giảm tương ứng với phần của thành viên yêu cầu công ty mua lại; (ii) Khi thành viên yêu cầu công ty mua lại thì tư cách thành viên công ty sẽ bị chấm dứt; (iii) Tỷ lệ phần vốn góp của thành viên sẽ thay đổi. Trên cơ sở có quyết định của Hội đồng thành viên, công ty phải thực hiện thủ tục thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh về thủ tục giảm vốn điều lệ của công ty, sau đó cập nhật thông tin về việc giảm vốn. Trong trường có thay đổi về thành viên công ty, thì công ty cũng phải làm thủ tục thay đổi thành viên trong công ty TNHH hai thành viên tới cơ quan đăng ký kinh doanh.
Tóm lại, với hình thức giảm vốn điều lệ bằng việc yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp của thành viên ở công ty TNHH hai thành viên trở lên hiện nay được diễn ra khá phổ biến. Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã được sửa đổi, bổ sung góp phần hoàn thiện môi trường kinh doanh và bảo vệ các nhà đầu tư. Tuy nhiên, khi áp dụng hình thức này, các công ty TNHH cần xem xét áp dụng theo những trình tự, điều kiện nhất định, xác định được giá mua, giá bán phù hợp, để đảm bảo quyền và lợi ích cho các thành viên yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp, cũng như cho cả chính bản thân công ty có được nguồn vốn ổn định trong quá trình kinh doanh./.
TS. Nguyễn Thị Thu Thủy
Khoa Luật Kinh tế, Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh
Khoa Luật Kinh tế, Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh
[1] Điều 46 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
[2] Cục Đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
[3] Khoản 1 Điều 34 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
[4] Khoản 2 Điều 47 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
[5] Khoản 5 Điều 47 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
[6] Điều 48 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
[7] Điểm a Khoản 1 Điều 51 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
[8] Điểm b Khoản 1 Điều 49 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
[9] Điểm b Khoản 1 Điều 51 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
[10] Điểm c Khoản 1 Điều 51 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
[11] Điểm e Khoản 1 Điều 49 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
[12] Khoản 2 Điều 51 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
[13] Khoản 3 Điều 51 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
[14] Khoản 2 Điều 132 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
[15] Khoản 3 Điều 51 Luật Doanh nghiệp năm 2020.