1. Tình huống pháp lý
Anh Trần Văn T và anh Trần Văn V là anh em ruột với nhau. Anh T được cha mẹ cho 10.000 m2 đất trồng lúa. Năm 2021, do đất được giá nên anh T đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho anh Nguyễn MT với giá là 4,36 tỷ đồng.
Khi thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì anh T có điện thoại cho anh MT để chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng của V để nhờ V giữ hộ, khi nào anh T cần thì anh T lấy. Sau đó, anh MT chuyển nhượng quyền sử dụng đất này lại cho anh L và anh L có đưa tiền mặt cho V đúng với số tiền mà giữa hai bên đã thỏa thuận bằng miệng về hợp đồng gửi giữ tài sản.
Lý do anh T và anh V phát sinh giao dịch dân sự bằng hợp đồng gửi giữ là vì anh T thường đi làm ăn xa, ít thời gian ở nhà và anh T không biết rõ về các dịch vụ ngân hàng nên đưa anh V để tiện lợi.
Sau khi anh T gửi tiền cho V giữ hộ thì V có gửi toàn bộ số tiền này vào hai ngân hàng là Ngân hàng Á Châu và Ngân hàng BIDV. Anh T có thỏa thuận là khi nào anh T cần tiền thì điện thoại cho V hay để rút tiền ra đưa anh V trả tiền mua đất cho người khác.
Đến đầu năm 2022, anh T có yêu cầu V rút tiền để đưa tiền cho anh T thì V có rút ra 0, anh V khai vì lý do là bị cướp nên không thể đưa số tiền 3,6 tỷ đồng cho anh T được.
Tuy nhiên, sau đó V lại khẳng định rằng, không có việc bị cướp mà do đầu tư tiền ảo, chứng khoán trên mạng thua lỗ nên không còn tiền trả cho anh T được; V hứa bán đất được sẽ trả cho anh V nhưng vẫn không trả (nội dung cuộc trò chuyện anh T có ghi âm).
Mặt khác, anh T cho rằng, thời điểm yêu cầu V rút tiền thì V có tiền trong tài khoản, cũng như có tài sản là căn hộ hiện đang sống tại Thành phố Hồ Chí Minh[1], hoàn toàn đủ khả năng trả nợ cho anh T nhưng V vẫn cố tình không trả mà có ý muốn chiếm đoạt toàn bộ số tiền của anh T đã gửi cho V.
Đến ngày 16/9/2022, V có mượn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cha ruột để vay tiền và có trả cho anh T số tiền là 1,385 tỷ đồng. Đồng thời, V viết giấy cam kết trả số tiền còn lại nhưng đến nay V vẫn không thực hiện.
Anh T đã gửi đơn đến các cơ quan chức năng để yêu cầu xử lý hình sự đối với hành vi của V về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
2. Xử lý hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
2.1. Các hành vi thỏa mãn yếu tố cấu thành tội phạm
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là Bộ luật Hình sự năm 2015) quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cụ thể như sau:
Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản;
- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản;
- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2.2. Bàn về xử lý hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Trong tình huống pháp lý nêu trên, theo tác giả, chiếu theo quy định của pháp luật thì hành vi của V đã đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản 4 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bởi lẽ, thông qua hợp đồng gửi giữ tài sản theo Điều 554 Bộ luật Dân sự năm 2015, V đã nhận tài sản từ anh T với số tiền là 4,36 tỷ đồng, anh T nhờ V gửi tiền vào tài khoản ngân hàng thì số tiền này không thuộc quyền sở hữu của vợ chồng V; sau đó V đã dùng thủ đoạn gian dối thông qua việc cho rằng V bị cướp (một sự kiện pháp lý không có thật) để chiếm đoạt tài sản của anh T là vi phạm pháp luật về quyền sở hữu của anh T. V không có quyền sở hữu số tiền này của anh T nên V không có quyền định đoạt số tiền này nhưng V vẫn cố tình định đoạt rút số tiền của anh T để sử dụng cho mục đích cá nhân là hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của anh T tương tự như các hành vi mượn xe rồi đi cầm cố hoặc bán cho người khác.
Ngoài ra, tại các thời điểm anh T yêu cầu V thì V đều có tiền mặt và trong tài khoản ngân hàng, cũng như có tài sản là căn nhà; có đủ điều kiện, khả năng trả nợ nhưng cố tình không trả. Do đó, hành vi của V đã thỏa mãn quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015: Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả.
Đối với dấu hiệu “đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả” trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì hầu hết các cơ quan chức năng đều gặp nhiều khó khăn trong việc điều tra khả năng, điều kiện của người có nghĩa vụ nhưng họ cố tình không trả; dẫn đến thực trạng là các cơ quan chức năng thường trả lại đơn của đương sự và cho rằng không có dấu hiệu tội phạm.
Ngày 15/11/2023, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có Công văn số 4962/VKSTC-V14 ngày 15/11/2023 về việc giải đáp khó khăn, vướng mắc, kiến nghị, đề xuất của các đơn vị, Viện kiểm sát các cấp qua sơ kết, giao ban công tác 9 tháng đầu năm 2023, trong đó tại điểm 9 phần I mục A, Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trả lời về một tình huống như sau:
“Trường hợp một người nhờ người khác bán hộ tài sản và xác định thời hạn phải trả lại tiền, người bán hộ tài sản sau khi bán được, hưởng hoa hồng theo thỏa thuận và không trả lại tiền mặc dù đã quá hạn thanh toán, người này nêu lý do số tiền bán được tài sản đã ăn tiêu hết (đi chơi, ăn nhậu, hát karaoke...) thì có áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 để xử lý hay không?
Trả lời: “Điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”.
Vì vậy, trong trường hợp nêu trên, để thỏa mãn hành vi khách quan của tội phạm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015, thì phải đáp ứng cả 02 điều kiện: (1) Đến thời hạn trả lại tiền; (2) Vào thời hạn trả lại tiền đó, người phạm tội có điều kiện, khả năng trả lại tài sản nhưng cố tình không trả. Do đó, đối với trường hợp nêu trên, mặc dù đối tượng nêu lý do không có tiền để trả lại do số tiền bán được tài sản đã ăn tiêu hết (đi chơi, ăn nhậu, hát karaoke...) nhưng cơ quan có thẩm quyền vẫn phải điều tra, làm rõ về việc đối tượng có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả thì mới có căn cứ áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015”.
Như vậy, để xem xét hành vi của người nào đó có phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt thuộc hành vi này hay không thì bắt buộc các cơ quan tố tụng cần phải điều tra, làm rõ về việc đối tượng có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả hay không để làm căn cứ áp dụng pháp luật.
Trong trường hợp nêu trên, nếu không tiến hành điều ra, làm rõ việc V có tài sản nhưng đã chuyển dịch tài sản cho người khác để chiếm đoạt tài sản để chứng minh hành vi “đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả” thì sẽ không có cơ sở xử lý trách nhiệm hình sự đối với V được.
Trường hợp trong quá trình điều tra, xác minh các cơ quan chức năng đã làm rõ tại thời điểm V phải thực hiện nghĩa vụ trả tài sản cho anh T thì V có tài sản là tiền trong tài khoản và căn nhà đủ để trả cho anh T nhưng V cố tình không trả và bán căn nhà cho người khác thì hành vi của V đã đủ dấu hiệu cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
3. Kết luận
Thông qua hợp đồng, giao dịch người nhận được tài sản, người này không có đầy đủ quyền của một chủ sở hữu, không có quyền định đoạt về tài sản nhưng người nhận được tài sản lại định đoạt tài sản này, dẫn đến không thực hiện nghĩa vụ trả tài sản, chiếm đoạt tài sản của người khác thì hành vi này đều được xem là hành vi dùng thủ đoạn gian dối trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Trong trường hợp xử lý đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo dấu hiệu “đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả” thì các cơ quan chức năng không được trả lại đơn, chỉ dẫn đương sự khởi kiện vụ án dân sự như các tội khác khi chưa tiến hành hoạt động điều tra, làm rõ điều kiện, khả năng của người bị tố giác để làm căn cứ cấu thành tội phạm.
Quy định về dấu hiệu phạm tội như nêu trên là một quy định mới so với Bộ luật Hình sự năm 1999 và có đặc điểm đặc trưng so với các tội khác của Bộ luật Hình sự năm 2015. Do đó, cơ quan chức năng không được “vội” trả lại đơn hoặc ban hành thông báo không khởi tố vụ án hình sự mà bắt buộc phải tiến hành hoạt động điều tra theo đúng tinh thần của hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Trên đây là chia sẽ kinh nghiệm và trao đổi của tác giả để các cơ quan chức năng xem xét xử lý hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản một cách thấu tình, đạt lý.
Trần Tú Anh & Huỳnh Minh Khánh
Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang
Ảnh: internet